Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013


PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI

THƯỢNG QUẢNG HẠ ĐỊNH


Trích VÔ NHẤT ĐẠI SƯ dạy trong “ Ẩn tu thi tập ”
( Nguyên là Giáo sư TRường Cao Đẳng PHẬT học Huệ Nghiêm
   Và Trường Đại học PHẬT GIÁO Vạn Hạnh, Đô Thành Sài Gòn )


…….

“ẨN TU dường thấy khắp nhơn tình
Trái đạo luân thường tạo sát sanh
Nên khiến tai trời thêm ách nước
028.Vầng hồng xế bóng khắp Tây khuynh.

ẨN TU nhằm biết chuyển cơ trời
Nhân quả lọc thanh đạo với đời
Tai biến dập dồn muôn cảnh chết
035.Núi xương sông máu thảm đầy vơi.   

ẨN TU tuy biết lý cao siêu
Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều
Căn tánh người nay đà kém loạn
128.Nói hay làm phỏng được bao nhiêu    


ẨN TU hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhân thân đã khác xưa
       Lòng thú hình người đầy lớp lớp              
316.Cảnh đời gió gió lại mưa mưa.             

ẨN TU lý đạo nói sao cùng
Nhân quả nghiêm minh xử lạnh lùng
Tài sắc giàu sang âu cảnh tạm
348.Sáng tươi chiều héo đóa phù dung “  

……


Trích Lời VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
                                  dạy trong “ Pháp yếu TU HÀNH ”

Nhớ lời cổ đức dặn:
« Ta có mật bí quyết
Nhất thiết khuyên bảo nhau
 Là hết lòng thành kính
Nhiệm màu cực nhiệm màu. »
Hãy ghi nhớ điều này
Lắng lòng suy nghĩ sâu.
           
               ⃰⃰⃰⃰ 
           ⃰         ⃰
Trời xanh suối biếc một bàu,
Ánh trăng vẫn sáng một màu xưa nay.
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u hoài thêm thương.
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên.
Bụi hồng tung gió đảo điên,
Vô tình Mai nở dịu hiền cành xuân.

< Trích trong « Pháp yếu tu hành » của Vô Nhất Đại Sư, Hòa thượng Thích thiền Tâm ân sư của đệ tử Tỳ kheo Bồ Tát giới Thích Quảng Định>





PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI (1)



                                  Tỳ kheo THÍCH THƯỢNG QUẢNG HẠ ĐỊNH



Lều treo bên suối không phên vách
Gió lộng mênh mang chin phương trời
Cầu rửa xếp đá không xây gạch
004.Mưa nước suối đầy nắng liền vơi…            

Tránh mưa: căng bằng vuông bạt lớn
Che nắng: tầng cao tán lá rừng
Ghi-đô ngăn gió ( bao phân bón ),
008.Mưa giông sư đệ vẫn an lành                        

Nước ngọt thủy thần luôn mời uống,
Mộc         thần hiến củi luộc bánh chưng!
Ngọn bí, rau lang cùng rau muống,
012.Bé gái còn đem cúng rau rừng

Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế
Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
016.“Ăn sang” mà chẳng tốn mấy đồng!(3)

Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi  “chè phê” )
Mấy ngày mưa bão Trai ngọ sớm
020.Tráng miệng chuối ương chấm muối mè

Đi hái rau rừng xem địa lý!
Phơi đồ còn phải xét thiên văn!(5)
THI SỸ TẢN ĐÀ thành tri kỷ
024.Họa thơ, nối vận mấy mươi vần!(6)

Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa,(7)
Trời quang, sao sang, trăng đẹp quá,
028.Thanh thản an nhiên, chẳng thiếu thừa!

HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
Thiểu dục đường TU thích thanh cao(8)
Giàu trăng, giàu gió hơn tỷ phú,(9)
032.Tụng kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO!(10)

GIA LAI, AN-KHÊ thôn An Thạch,
Lễ rằm mấy người tới cúng dường,
Sơn thần thành kính dâng cúng PHẬT
036.Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương.(11)

Mấy lần mưa gió nay tạnh ráo,
Thỉnh PHẬT quang lâm nắng vàng tươi,
Đông người công quả nơi TAM BẢO,
040.Đồi núi rộn vui tiếng nói cười…

Trồng thuốc cứu người, hoa cúng PHẬT,
Lương thực, rau xanh hợp… TU TRÌ,
Bên bờ suối nước, vừa có đất,
044.Rừng cây núi đá tiện đường đi.

Trồng ngải diệp nhiều khi cấp cứu,
Củ gừng, củ nghệ, củ giềng tươi,(13)
Trừ tả: Vú sữa cùng Thạch lựu, (14)
048.Lạc tiên ngủ tốt lại vui cười, (15)

Lá bưởi, lá chanh tươi lá sả,
Bạc-hà, ngũ traorgiair cảm “xông”(16)
Đinh lăng tận dụng than, rễ, lá,
052.Khi dung bổ dưỡng, lúc cần công, (17)

Mã đề giải nhiệt, thông đường tiểu,(18)
Tơ hồng, cỏ-gà hợp chữa ho, (19)
Cỏ may chữa rắn hay thần hiệu, (20)
056.Kinh giới, tiêu đinh, ngứa, nhạt, rò…(21)

Dứa gai thông tiểu, tan tiểu đục,
Sống đời đắp nhọt thật thần tiên!
Sốt cao xuất huyết dung cỏ mực,
060.Giã tươi vắt uống hạ sốt liền!

Nhiều người tha thiết cầu theo học:
Y phương PHẬT PHÁP cứu độ người
Cứu khổ ban vui quên khó nhọc,
064.Hóa giải buồn đau thấy đẹp tươi

Thầy ngồi cặm cụi bên chồng sách,
Tìm phương cứu chữa bệnh nơi đây,
Gió núi mưa rừng miền An Thạch,
068.Thiếu thuốc đường xa, khó rước Thầy.

Ai chê ta “ chết nằm trên thuốc ” ?
Thuốc Nam nào kém thuốc ĐÔNG-TÂY ?
Người việt ta khéo dùng NAM DƯỢC, (22)
072.Vua Tàu thỉnh rước nặng ơn dày ! (23)

Khi cần bầu giác hay chích lể,
Thuốc thang trong uống chữa ngoài « xông »!
Thuốc tán, thuốc hoàn, khi phương tễ,
076.BẤM-HUYỆT, YOGA, hợp KHÍ CÔNG.(24)

“TUỆ TĨNH TOÀN THƯ” SƯ TUỆ TĨNH,(25)
Tự độ độ tha thật công trình! (26)
Đọc “HẢI THƯỢNG Y TÔN TÂM LĨNH”..(27)
076.“DƯỢC TƯỚNG CHỈ NAM” NGUYỄN VĂN MINH..(28)

Thượng tọa TÂM ẤN “CHÂM CỨU HỌC”(29)
“CHÂM TÊ” Tiến sỹ NGUYỄN TÀI THU,
“CẨM NANG CHÂM CỨU” danh THƯỢNG TRÚC,
080.Gắng học siêng hành, chẳng chịu ngu.

Đỗ Tất Lợi hàng Giáo sư Tiến sĩ:
“Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam(32)
Ai vận dụng nhiều diệu phương huyền bí,
084.Hiểu rành thông lý thuyết, giỏi tay làm?

Ai khinh ta dốt? khinh sao được!
Quí “công ba lượng, của ba đồng”
Tàu chuộng “Hoa Đà” mê “Biển thước”
088.Ta ơn Tuệ Tĩnh trọng Lãn Ông…

Thuốc cứu thần thông đa dụng nhất,
Cải tử hoàn sinh thập cấp kỳ,(35)
Đuổi  rắn rết độc đều “chạy mất”!(36)
092.Bại tê, thổ tả cũng bay đi.! (37)

Sài đất tiêu độc trừ mụn nhọt,(38)
Thài lài: xào dấm chữa “đau tim”.(39)
Chua lẻ,lọc máu, xào nấu ngọt,(40)
096.Trị đờm, trừ suyễn: hạt Bìm Bìm.(41)

Củ gừng củ nghệ yên bao tử,(42)
Phù chân mau khỏi cỏ bong bong,(43)
U phổi tìm Hoàng cung Trinh nữ,(44)
096.Kém ăn, khó ngủ uống Lưỡi – đòng.(45)

Rau má: giải độc gan nhuận,mát, (46)
Nhức đầu, thanh nhiệt thảo quyết minh,(47)
Tỏi một với đào nhân nửa hạt:
100.Sốt rét thần phương, tự cứu mình!(48)

Ai nói ăn tàu bay hay sốt?
Nào biết diệu năng món rau này?(49)
Chất độc mỹ rải muôn cây chết,
104.Mọc liền “Kháng Nhiễm Dược” tàu bay!(50)

Mất ngủ, phong thấp dung trinh nữ, (51)
Đậu xanh giải độc thật đáng công, (52)
Bán hạ cứu sống người tự tử, (53)
108.Di tinh huyết bạch uống tơ hồng. (54)

Lá duối chữa mẹo tan sưng vú (55)
Hương phụ là tiên dược nữ nhân, (56)
Khó đẻ tìm trái non đu đủ, (57)
112.Sinh xong cần ích mẫu nhân trần.

Ăn lá sung non cho nhiều sữa,
Vỏ trừ phong thấp khỏi đau lâu,
Ghẻ lở đinh nhọt nên dung nhựa,
116.Đắp huyệt thái dương chữa nhức đầu. (59)

Trăm ngàn phương dược sao kể hết,
Ai “học như biển, dụng như châm”? (60)
Giành lại mạng người từ thần chết,
120.Thuốc Đại-Tùng-Lâm, dụng tay cầm! (61)

Phép chữa bệnh cũng rất cần châm cứu,
Thuốc Mĩ, Tây nhiều khi bó tay,
Tê, bại liệt, miệng méo, la ngọng nghịu ,
124.Cứu chữa nhanh không phải khổ lâu ngày. (62)

Khi châm cứu án huyệt cho chính xác,
Những huyệt nào cần cứu, huyệt nào châm?
Hiểu thật rõ từng đường kinh, huyệt, lạc,
128.LUẬT ÂM –DƯƠNG bổ tả khỏi sai lầm. (63)

TRUYỀN NHÂN ĐIÊN với môn BẤM HUYỆT,
Hỗ trợ vào điều trị càng hay
Biển khổ tram luân ai tả xiết,
132.Cứu sao hết bệnh thế gian này?

Hoài sơn khó cứu người “vận-khứ”,
Củ khoai cải tử kẻ “thời - lai”
Chẳng gây nghiệp ác đều vô sự,
136.Bệnh tật cần chi luận rông dài! (66)

Chữa bệnh cứu người không đơn giản,
Trị phần thân bệnh giảm tiêu nhanh,
Ai mang bệnh nghiệp?(67a)
                              Ai đại hạn? (67b)
140.Phương chi cứu phạm luật ngũ hành,(68)

Trúng tuổi kim lâu đâu dễ chữa ? (69)
Phạm «cung tuyệt mạng » sửa làm sao ?
Cớ chi sinh nữ không nam tử ?(71)
144.Vô sinh tuyệt tự chữa thế nào?(73)

Chồng khổ nạn thử đức tâm người vợ?
Vợ nguy nan do tâm địa người chồng?
Ai nhận thấy vợ chồng là oan nợ?
148.Nguyện cùng TU GIẢI-THOÁT có hay không?

Bệnh khó TIN SÂU còn cứu được, (74)
Nghi ngờ bất tín thật vô phương,
Dù rước Hoa Đà cầu Biển Thước,
152.Hải thượng, Tiên Ông cũng bí đường!

Thật cao quí lương y như từ mẫu,
Thương bệnh nhân như thương chính thân mình,
Ghê sợ quá “tham y như hổ gấu”
156.Bài “đầu tiên” dạy “đền đáp ân tình”

“hữu thỉnh hữu lai” “cầu tất ứng”
“Bất cầu,” “vô thỉnh” độ làm sao?
Thuốc thang ngại uống không tin tưởng,
160.Thánh y cũng đành bó tay chào.

Thương mến sơn cước gian khổ quá!
Giúp người mau ấm áo no cơm.
Ai độ được kẻ lòng chim dạ cá,
164.Muốn được mình liền bẻ ná, phá nơm?!...

Xót người không biết không cầu học,
Chưa thông không chịu học cho thông?(77)
Nảy sinh tà kiến bày moi móc…
168.Tội xây thành núi, phước đổ song!... (78)

Kẻ tà kiến biến thành “sư tử”
Ai nhập bầy với kẻ phá đạo kia?(79b)
Chẳng phân tà chính, không lành dữ?
172.Ai biết ác ma qua xa lìa? (80)

Việc hay không biết xoay thành dở
Điều xấu lầm mê trở thành hay ?!
Hủy báng TAM BẢO không biết sợ,
176.Nghiệp chướng chẳng vơi kết thêm dày,..(81)

Huynh đệ hộ pháp không tán thán,
Buồn chê, phiền trách muốn cản ngăn ?
Cùng « sư tử trùng » làm bè bạn, (82)
180.Kết làm quyến thuộc chúa Ba Tuần. (83)

PHẬT thường cứu độ, Ma cản phá,
Nơi nào có PHẬT cũng có Ma,
Chẳng tin tội phước không nhân quả ?
184.Đọa lạc triền miên chẳng ngán à ?!

Ai cúng TAM BẢO như đổi chác,
Độc quền giữ THẦY của riêng mình ?
Muốn chẳng toại tâm liền khắc bạc,
188.Mặt làm ra trọng, giọng buồn khinh!

       Điều thiện ác trắng đen đang sàng lọc,
       Cảnh Dở-HAY, TRONG-Đục chẳng lầm đâu !
       Người xưa bảo « nắm đầu người có tóc »,
192.Ai rẻ khinh « tìm túm sư trọc đầu» ?! (84)

       Hội thi kỳ này nghiêm túc quá,
       Thi cả người TU cả người đời,(85)
       Nợ oan nhiều kiếp vay phải trả !
196.Sáng biển luân hồi vạn trùng khơi !...(86)

        Người thiện đức làm lành ít quá,
        Cộng nghiệp ác tham nghịch ý TRỜI !
        « Tai biến dập dồn bao cảnh chết,
200.Núi xương sông máu thảm đầy vơi »(87)

       CƠ TRỜI thanh lọc đời THẬT-Giả
       Tốt lành tồn tại, xấu diệt vong !(88)
       Ai trốn khỏi « LUẬT TRẢ VAY NHÂN QUẢ » ?
204.Vay một đồng phải « trả lãi » ngàn đồng !(89)

       Cứu bệnh tật tầm học thông Y-DƯỢC,
       Cầu ở yên nghiên ĐỊA LÝ- HUYỀN CƠ.
       Nhớ ĐẠT MA,NGUYỄN DU chưa quên được,
208.Ngán luân hồi THIỀN, MẬT, TỊNH ..đồng TU.

       Bản thân lắm bệnh sâu nghiệp chướng,
       Học thuốc tìm TU tự cứu mình !
       Xót khổ chúng sinh nhiều vô lượng,
212.Dày công cầu TU HỌC NGŨ MINH.(90)

       Ai chưa đắc QUYẾT HỌC HÀNH chứng đắc,
       Ai chưa thông QUYẾT RÈN LUYỆN tinh thông,(91)
       Ai chậm tối ngây khờ như BÀN ĐẶC,
216.THẬT QUYẾT TU đạo quả cũng thành công.(92)

       Ai giúp mình trở sinh lòng bất mãn ?
       Dáng buồn thay ? hay tội nghiệp đáng thương ?
       Ai khéo « học thầy không tầy học bạn» ?
220.Người đi sau ơn người trước chỉ đường !(93)

       Ai tự thấy « thua kém thầy một vạn,
       Không hổ bằng kém bạn một ly. » ?(94)
       Người tài đức phải tinh thoonh dày dạn,
224.Rồng gặp mây, đại hạnh ngộ diệu kỳ.

      (Ai tự thấy « thua kém thầy một vạn,
       Không hổ bằng kém bạn một ly. »
       Người thuyền trưởng trải phong ba dày dạn
228.Phước duyên sơ đành lằng lặng chào đi)

       Ai lắm lúc nghiêm khắc kêu « khó quá »,
       Ai nhiều khi dễ dãi quá « sinh nhờn » ? (95)
       Ai tới trước, chẳng thay lòng đổi dạ ?
232.Ai về sau càng thấy tôt đẹp hơn ?(96)

       Ai chữa bệnh cứu giải trừ tận gốc,
       Không dở dang dối gạt chữa cầu may ?(97)
       Ai bệnh khó đòi khỏi liền một chốc ?
240.Ai nghiệp sâu muốn tiêu gấp đôi ngày ?(98)

       Ai mê ngủ tìm chê người thức tỉnh ?
       Kẻ không tin biết cứu độ làm sao ?(99)
       Ai nghiên cứu hợp nhiều môn chữa bệnh,
244.Chẳng chấp nê khinh rẻ Pháp môn nào ?!(100)

       Ai chữa bệnh khéo dùng khoa THỰC DƯỠNG,
       Nhờ OSAWA ĐIỀU CHỈNH ÂM DƯƠNG,(101)
       Cơm gạo lứt muối mè môn tối thượng,
248.Ở trần gian thanh thản tựa thiên đường !(102)

       Kiếp xưa sát mạng, nay đòi mạng?
       Cải tử hoàn sinh quí vô cùng!
       Sao thành họa “trùng tang lien táng”?
252.Phép chi cứu đại nạn “chết trùng”?(103)

       Giải nghiệp nặng phải LẬP ĐÀN SÁM HỐI,(104)
       Siêng TU TRÌ TRỪ CÁI CHƯỚNG CHÂN NGÔN,(105)
       Mùa báo hiếu VU-LAN tiêu giải tội,
256.Mời TỐ NHƯ cùng cúng thì cô hồn.(106)

       Gieo trồng lam sao sâu khỏi phá,
       Chuột bo thú rừng cũng tránh đi,
       Hoa thơm, linh dược, cây trĩu quả…
260.Khéo THỰC HÀNH PHÁP CHÚ ĐẠI BI!(107)     

       KHỔNG – MINH đại thắng miền XÍCH BÍCH,
       Bởi biết lập đàn rước gió đông.(108)
       Quốc Thái dân oan, tan ôn dịch:
264.Khéo LẬP ĐÀN HÀNH PHÁP MẬT TÔNG(109)

       Cứu nghèo khó dụng PHÁP CẦU TÀI BẢO,(110)
       Trừ ngu si: trì TĂNG TUỆ CHÂN NGÔN,(111)
       Tiêu nghiệp chướng, hóa giải muôn khổ não
268.Ai khéo dùng trong ngàn vạn Pháp môn?

       Ai khéo “dụng NHÂN như dụng MỘC”(112)
       Ai biết “Dụng Y như dụng BINH”(113)
       Dứt trừ nghiệp sát, tham, ác độc,
272.Thế giới đẹp vui cảnh thái bình!(114)

       PHẬT PHÁP – DƯỠNG SĨNH, Y…NHÂN ĐIỂN,
       HUYỀN CƠ CHẤM – CỨU, DƯỢC…hay thay!
       BẢY MŨI GIÁP CÔNG dàn trận tuyến!(115)
276.Bệnh ma tật quỉ cũng tan bay,(116)

       Chưa hiểu biết, NGƯỜI chỉ cho hiểu biết,
       Được “BẢO CHÂU” chẳng quí trọng “BẢO CHÂU”?
       Ai để mất rồi mới than hối tiếc?
280.Được duyên may, sao chẳng quí tư đầu?!(117)

       Kẻ bạc phước chẳng hay mình bạc phước?
       Người vô duyên nào biết tự vô duyên?
       Kẻ bạc phước “điều tốt không thấy được,”
284.Người vô duyên “Tâm ý đổi thay liền”!

       Ai bảo rằng “Họa vô đơn chí”?
       Ai biết ràng “Phúc bất trùng lai”?(118)
       Ai khéo cúng dường, vui xả thí?
288.Tìm đâu bậc HIỀN-TRÍ TÀI-NHÂN?!...

      Thương xứ khổ PHẬT cho người cứu khổ,
      Chẳng biết ơn trở hờn giận rẻ khinh?
       Kẻ kêu khổ trách chê người cứu độ,
292.Đáng trách người hay phải tự trách mình?(119)

       TẢ AO bảo “ĐỊA LINH SINH NHÂN KIỆT”
       Nơi “ÂM DƯƠNG SUNG MÃN PHÁT NHÂN TÀI”(120)
       “TIÊN TÍCH ĐỨC, HẬU TẦM LONG” khéo biết,
296.Trăm ngàn lần đều ứng nghiêm không sai?(121)

       Dương khí ngưng cao, âm tụ thấp,
       Nghiên tầm đỉnh núi khúc sông sâu…
       Ai biết được “MẠNG DO NGÃ LẬP”?
300.Ai hiểu rằng “PHƯỚC TỰ KỶ CẦU”?(122)

       Ai gian bớt (123a) vít đầu người làm sướng?(123b)
       Ai biết rằng “CHÙA LÀ BÙA CỦA LÀNG”?(124)
       Dân phú quốc cương an khương thịnh vượng,(125)
304.Chùa hưng sung xứ sở phước lộc tăng!(126)

       Bốn điều cần yếu khoa PHONG THỦY :
       ÂN-TÌNH-NGHIA-LỤY mới giúp thôi!
       Thế gian lắm chuyện “hay” đấy nhỉ,
308.Cứu độ cho người phải xin người?!

       Quán xét kỹ nhân tình… xem thế thái..(127)
       Duyên phước lành khiếm khuyết độ sao nên?
       Gieo giống lép chẳng đơm bong kết trái,
312.Không khéo TU hưởng phước chẳng lâu bền!(128)

       CẦU ĐẠI PHƯỚC chẳng tầm thường quấy quá,
       Không dễ dàng như kẻ lượm sung rơi!(129)
       Được tiền bạc có nhiều khi mạng họa,
316.Học điều hay phước đức hưởng muôn đời!(130)

       Được hưởng phước thường thích ưa làm phước,
       Có thiện duyên càng vui kết thiện duyên,
       VÔ DUYÊN PHƯỚC biết làm sao cứu được?
320.TÂM CHÍ THÀNH là LINH-DƯỢC THÁNH-TIÊN!

       Được phước báu phải giữ gìn phước báu,
       Kẻ ngu si hèn nhát đáng được không?
       Chư BỒ TÁT xả thân cầu ĐẠI ĐẠO,
324.Nát thân dâng cũng chẳng sánh tương đồng.(131)

       Ai mượn tiếng hộ trì ngôi TAM BẢO,
       Thôi chỉ lo danh lợi của riêng mình?
       Không biết tội?
                         Chẳng sợ mang khổ báo?
328.Đọa tam đồ trăm ngàn kiếp u minh!

       Làm việc TAM BẢO ai than mệt?
       Nhân lành quả phước được bao nhiêu?
       Hiến thân HỘ PHÁP muôn ngàn kiếp,
332.Nào dám xưng hô phước đức nhiều!(132)

       Chí thành TAM BẢO GIA ÂN PHƯỚC,
       Ác nhân cản phá hưởng được không?
       Quyết giữ không kẻ nào phá được!
336.Già trẻ gái trai QUYẾT MỘT LÒNG.

       Thương người thiển cận nhìn một chỗ,
       Xót kẻ đui mù đứng sờ voi!(134)
       Trong “NAM” khinh “BẮC”? “TÂN” chê “CỔ”?
340.Tưởng như quảng đại lại hẹp hòi.

       Ai khát cháy cổ mới đi đào giếng?
       Trăng quầng to…đại hạn… đợi còn lâu!...
       Bệnh nguy cấp chờ thuốc dâng tới miệng?
344.Ỷ cao sang lương dược chẳng tìm cầu.(135)

       Bệnh nghiệp trần gian ai biết được?
       X quang chiếu chụp thấy điều chi?
       Định nghiệp khó cứu trong muôn một.
348.Chẳng tin TAM BẢO… dễ mong gì?(137)

       Bệnh nghiệp nặng: cắt mổ sao cho hết?
       Xét suy lầm chẳng hóa giết oan nhau?
       Quá mòn mỏi…tiền hết!.. người vẫn chết!
352.Mất mạng rồi thần thức biết về đâu?

       Đồng ngưỡng mộ cầu thuốc hay thầy giỏi,
       Hợp âm trần cứu trị giải trừ nhanh,
       Kẻ nghèo khổ bệnh nguy còn dễ khỏi,
360.Người cao sang, quyền quý khó chữa lành!..

       Khắp vũ trụ ngàn vạn điều linh diệu,
       Còn muôn phần cần yếu phải nghiên tầm?...
       Tự bưng bít, chẳng biết mình kém thiếu?
364.Vừa mở mồm liền kết luận “duy tâm”

       ÁC SI MÉT (139a)+NƯU TƠN (139b) về chứng kiến :
       Hai đường song song muốn gặp nhau?
       Mời BRAONO “kẻ một đường cát tuyến”
368.“DUY VẬT”+ “DUY TÂM” nối nhịp cầu.(140)

       Khổ công TU-HỌC thông vài việc,
       Nói ra hay để chết mang đi?
       AI TIN TÌM BIẾT? AI CÙNG BIẾT?
372.Xét xem nói thật được ích gì?

       Miệng câm tai điếc thà chẳng biết?
       Nói để ai nghe, viết làm chi?
       Tri âm tấu khúc “Sầu ly biệt”…
376.Quăng đàn!...BÁ NHA nhớ TỬ KỲ!(141)

       “Thư muốn viết đắn đo chẳng viết,”
       TAM NGUYÊN buồn tạm biệt DƯƠNG KHUÊ…(142)
       Kẻ tàn bạo tìm nhân tài trừ diệt?
380.“Án quả đất quay”lăn lóc…khóc GALILE!(143)

       Ai “bất minh” ai chẳng “đầu tha quốc”?
       Ai “bất từ” ai chẳng muốn “tha phương”?(144)
       TÀO THÁO đãi HOA ĐÀ trong… đại ngục!...
384.Phận tôi trungcam nhận kiếp đoạn trường?!...(145)

       DÃ TRÀNG vẫn bền gan xe cát mãi? (146)
       NGU CÔNG còn dời núi chẳng tiếc công? (147)
       “ÁN LỆ CHI VIÊN”…oán truyền NGUYỄN TRÃI
388.Giết hết rồi oán kết giải được không?(148)

       Lắm kẻ ác tham, đông xảo trá,
       Tóc tang oan khuất hóa đen trời!
       Ai bảo nước trong không có cá,
372.HIỀN NHÂN thật khó có ban chơi?!(149)

       Ai hiểu được “quan nhất thời” quyền thế?
       Ai biết rằng “Dân vạn đại” nghĩa nhân? (150)
       Đắc nhân tâm lưu truyền muôn thế hệ,
376.Thất nhân tâm- khó lừa gạt nhiều lần!(151)

       Kẻ ngay hay bị người đổ lỗi?
       Tiểu nhân gian dối được tâng công!
       Trung thần nghĩa sỹ đem kết tội?
380.Bắt phải chịu thôi! Thật chẳng thông!

       Phản dân hại nước không ngán sợ?
       Tham ô…hối lộ… với thông đồng…(152)
       “Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”!
384.Kẻ “Phá đê” nghiêm trị hay không?

       Người oan mong được BAO CÔNG xử?
       Khắc khoải đêm ngày đợi… chờ… trông…
       TRIỂN CHIÊU, TRIỆU HỔ… tìm đâu nữa?...
388.Để thế gian này lắm bất công! (154)

       Lũ ba phải “rắn” bảo “rồng” cũng gật?
       “Hổ mang hoa” hô “trăn đất ”cũng ừ?
       NGƯỜI CHÂN CHÍNH trước sau đều “nhất nhất”
392.Ngán kẻ “Khi quan tám …lúc quan tư…”(155)

       THIỆN-TRI-THỨC hơn cả bầy La Sát,(156)
       Ai “Quí hồ tinh, bất quí hồ đa”? (157)
       NGƯỜI DŨNG SỸ hơn ngàn binh đào nhát,
396.Hiếm HIỀN NHÂN, nhiều tham ác gian tà! (158)

       Nghe chuyện các loài Cò và loài Cốc,
       Bầy Cốc “mò” để các cụ Cò “xơi”!
       Ôi công cốc! mãi dại khờ ngu ngốc?
400.Mò hoài công!... Vươn dài cổ kêu Trời!

       Chẳng muốn thấy cảnh “nồi da xáo thịt”
       Không nỡ nhìn “huynh đệ triệt hại nhau!”
       Muôn sức mạnh bởi YÊU THƯƠNG ĐOÀN KẾT.
404.Ôi “cốt nhục tương tàn”! … mãi khổ đau!...

       Ma quỷ muốn “Diệt hết dòng họ Rết”!
       Bày mưu cho “Rết tìm diệt trừ nhau”!
       Trúng quỉ kế “ Tự chặt chân kụt hết”!
408.Chẳng còn chân! Rết làm được gì đâu!...

       Sách “tự diệt ” thật vô cùng khốc liệt!
       Hồng vệ binh…khơ me đỏ…đập đầu!...
       Ôi đau xót!... “tự chặt chân mau chết”
412.Hết chân rồi!...Rết sống được bao lâu?

       Này quỉ quái Ta bảo cho ngươi biết:
       Ngươi muốn dòng họ Rết diệt trừ nhau?
       Khiến diệt hết ta lại thêm đoàn kết!
416.Chẳng dại khờ trúng quỉ kế ngươi đâu!

       Ai cực khổ mới tìm cầu TAM BẢO?
       Ai khi cần lỄ PHẬT, lúc theo ma?
       Kẻ giả dối hay hẹn huyền hứa hão,
420.Ai mượn danh TAM BẢO tạo nghiệp tà?!

       La sát suy bung ta ra kẻ khác,
       Tưởng răng ai cũng quỉ quyệt như mình ?!(159)
       Người hiền đức khác hẳn phường tham ác,
424.Quí đẹp thay THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH !(160)

       NHÃN QUANG thấy DẠ MINH CHÂU trong đá,
       Mắc bệnh chi nhìn bạn hóa ra thù ?
       Deo « đảo kính » thấy nhiều điều quái lạ,
428.Tội và công Đảo-Lộn họa thiên thu ?! 

       Ai đeo mãi kính cũ mờ đen kịt,
       Nhìn chỗ nào cũng xám xịt tối thui !
       Thấy trời đất nổi phong ba mù mịt,
432.Bảo « tiến lên » lại nghe nói « thụt lùi » ?!...

       Ai luôn bị dập vùi trong chướng nạn,
       Quyết vươn lên làm lợi ích cho đời ?
       Người xảo trá thường dối thầy lừa bạn,
436.Dùng mưu gian tạo danh vị ngồi «xơi » !...

       RÈN GƯƠM BÁU không thể dùng sắt rỉ,
       Phải luyện bằngTHÉP LUYỆN ĐÚC TINH CHUYÊN.
       Kẻ hèn dốt không thể thành ĐẠI SĨ !(161)
440.BẬC TRƯỢNG PHU VÌ NGHĨA xả thân liền !(162)

       Thuyền độc mộc sao chở trăm kẻ tội ?
       Ai nhờ đưa vừa cưa…đục…phá thuyền ?
       Kẻ gian ác chờ « Diêm vương » cứu nổi ?
444.Há mồm to đợi thuốc Thánh Thần Tiên !

       Nhớ lão tướng kiên cường KU-TU-DỐP…(163)
       Hào hùng thay TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG !
       Giao thống lĩnh một đoàn quân ô hợp,
448.Dùng phép chi thắng giặc khắp chiến trường.(164)

       Kẻ cầu phú quí thường phù thịnh,
       Ai tìm cứu khổ nguyện độ suy ?
       Ngược thay mê ngủ chê người tỉnh !
452.Thôi đành để bụng chết mang đi !

       TRẠNG TRÌNH thấy « đời như bọt nước » !
       BẠCH VÂN nhìn  «…thế…tựa chiêm bao » !
       Biết vậy vì sao chưa thoát được ?
456.Làm ĐẠI TIÊN ÔNG tới kiếp nào ?(165)

       Chẳng ưa TU PHƯỚC ? không HÀNH THIỆN ?
       Dãi đằng đưa đón cũng « chào » thôi !
       THẬP KIẾP BI NGUYỆN vui TRÒN-NGUYỆN,
460.Cánh nhạn tung bay vút chân trời!

       Nơi nào được làm nơi « AN-THẤT »
       Duyên lành phước đức thật vô biên!(166)
       Dùng pháp ngũ minh ơn ĐỨC PHẬT,
464.Chuyển khổ thành vui ứng hiện tiền!(167)

       Thiên thời địa lợi cùng nhân sự…
       Nơi này thông chiếu thấu muôn nơi,
       Xử thất nhân tâm anh tài “khứ”!
468.Sao ĐẮC-NHÂN-TÂM… khế CƠ-TRỜI!

       Huynh thăm chốn TỔ nơi phương BẮC,
       Đệ viếng quê CHA ở miền NAM,
       Khắp nơi khắp chốn đều TU ĐỨC,
472.Thái bình an lạc mãi muôn năm!(168)

       Ai vùng KINH-BẮC ai HÀ NỘI,
       SÀI GÒN BÀ-RỊA với LÂM-ĐỒNG,
       BÌNH THUẬN, BUÔN MÊ…kinh tế mới
476.Đông- Tây, Nam-Bắc … mọi đường thông!

       Nhớ lang xưa CỔ PHÁP nay ĐÌNH-BẢNG,
       Đất ngàn năm văn vật BÁT LÝ VƯƠNG,
       PHẬT ĐẠO Tiên đế trọng, ai hủy báng?
480.Nên hợp muôn lòng xây dựng quê hương.(169)

       LÝ TRIỀU ma quỷ thường quấy rối,
       Phù thủy Đại-Điên biến hóa thông?...
       Bình Chiêm, phạt Tống, trừ ma nội,
484.Ơn TỪ-ĐẠO-HẠNH KHÔNG-MINH-KHÔNG!(170)

       Thời mạt pháp ai làm TÔN-HÀNH-GIẢ,
       Trừ Tà, Ma, Quỷ quái diệt Yêu tinh?
       Đời ngũ dục đảo điên đầy gian trá,
488.Ai ưng làm TRƯ-BÁT-GIỚI đa tình?!(171)

       YÊN TỬ, CHÙA HƯƠNG mùa trấy hội,
       Con hiếu nào không nhớ cố hương?
       Kẻ tha hương tìm về nguồn cội,
492.Kíp đi nhanh thẳng hướng chung đường!

       Đời ta ai hiểu hơn ta được?
       Ai thương mình hơn tự chính mình ?
       Xót đời ác thế năm món trược,
496.Gắng độ người THOÁT nẻo U MINH !(172)

       Vui biết mấy trụ trì LƯU LINH TỰ !
       Từ TÂY-NINH, BÌNH-ĐỊNH… tới SÔNG HỒNG,
       Tận tâm cứu kẻ « nhất sinh thập tử »,
500.Ai thương người hơn HÀNH GIẢ MẬT TÔNG !(173)

       Đất lát vàng, cây quí dâng cúng PHẬT,
       NGUYỆN HỘ-TRÌ PHẬT-PHÁP mãi xương minh,
       ĐẠI-PHƯỚC-ĐIỀN TAM-BẢO vi diệu nhất,
504.Thỉnh cầu TAM-BẢO cửu trụ xứ mình !(174)

       Sống trần tục mãi điêu linh đọa lạc,
       Đời thanh cao hồn giải thoát siêu thăng.
       Ôi tội nghiệp lũ Ó, Diều, Cò, Vạc !
508.Quí đẹp sao tầm vóc CÁNH CHIM BẰNG !...

       Nhập thế cứu người THÀNH ĐẠO CẢ,
       Ai tri ân HÀNH GIẢ MẬT TÔNG ?
       TỪ-BI-TRÍ-DŨNG cùng HỶ-XẢ,
512.« Nhuc-Vinh », « Đắc-Thất »…cũng tương đồng !(175)

       Ôi gian thế đảo điên không chân thật !
       Xót thân KIỀU chồng chất gánh tang thương !...
       Tố như dẫn THÚY KIỀU về theo PHẬT,
       (BỒ TÁT TỐ NHƯ dắt KIỀU theo PHẬT)
516.Thoát sông mê dồn dập sóng Tiền Đường !

       Chẳng thích ở chốn phố phường đô thị,
       Không ưng gần nơi địa vị giàu sang,
       Chẳng ham muốn món cao lương mỹ vị,
520.Không mừng khen đồ xa xỉ bạc vàng !

       Chẳng danh, không lợi, không quyền kế,
       Chẳng vào không đến cũng không đi !
       Ai bảo « học nhiều, làm nhiều thế »…
524.Đáp : « Bần Tăng này chẳng làm chi » !

       Chẳng phiền không ngại không quyền tới,
       Thương người cực khổ tới nơi này.
       Ai đưa, ai đón, ai trông đợi ?
528.Thẳng hướng TÂY PHƯƠNG nhẹ cánh bay !


Với nhan đề « Phước duyên miền An Thạch » 300 câu
Từ ngày 11 tới ngày 24 tháng 11 năm Mậu dần(1998)
Chuyển thành « Phước duyên miền An Thạch  
                           Thông mạch khắp muôn nơi» 440 câu
Tới ngày 29 tháng 2 năm Kỷ mão (1999);
Tới rằm tháng 4 năm Kỷ mão (1999) là 528 câu.

           Sa môn: THÍCH-QUẢNG-ĐỊNH Cảm tác.


CHÚ THÍCH: Gồm 175 mục.
(1) – Bài thơ có nha đề : “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI” nguyên nhan đề Bài thơ lúc đầu là “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN-THẠCH ??? ” nghe có vẻ bí ẩn, nên nhiều người hỏi Hành Giả:
- Lý do vì sao bài thơ có tên khác thường với ba dấu chấm hỏi đi tiếp liền sau như vậy?
Xin nói rõ căn nguyên như thế này:
- Quán xét kỹ: Thấy rõ phần phước đức và nhân duyên của vùng này còn khiếm khuyết quá nhiều nên phải đặt ba dấu chấm hỏi (???) như vậy. Sau này nếu có nhiều người ham TU Phước, vui hành thiện, thì xóa dần một dấu chấm hỏi, sẽ được hưởng một phần phước đức. Thời gian sau đó lại ham TU Phước, vui hành thiện, hơn nữa thì xóa một dấu chấm hỏi thứ hai đi, thì sẽ được hưởng một phần phước đức, khi nào đông người vui thích ham TU Phước, vui hành thiện, thì xóa luôn cả ba dấu chấm hỏi, là phần duyên phước được hưởng sung mãn tròn đầy!…
          Trong suốt thời gian chịu ảnh hưởng mưa, lụt, bão của cơn bão số 7 từ tháng 10 đến hết tháng 11 năm Mậu Dần (1998) Sau khi:
“ Quán sát kỹ nhân tình… xem thế thái
   Duyên phước lành khiếm khuyết độ soa nên ?
   Gieo giống lép chẳng đơm bong kết trái,
   Không khéo TU, hưởng phước chẳng lâu bền!”
Lại đối chiếu với “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN” trong phẩm “Minh Sư Khẩu quyết ” Đức PHẬT có dạy:
 Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là Minh sư khẩu thuyết?
            Đức Phật nói: “Khi Như Lai diệt độ rồi có dậy các vị Bồ-Tát truyền Phật tâm ấn tiếp nối huệ mạng của Phật , mỗi vị giáo hóa mỗi phương, dẫn dắt những người chưa ngộ. Nếu chúng sanh nào có nhân duyên, đặng nhân quả chơn chánh, chánh kiến, chánh tu, hàng phục tà ma ngoại đạo, phá trừ tà kiến, tu công hạnh chánh, trước sau trong sạch, biết người chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng truyền, nếu có thiện nam, tín nữ chơn chất, trí tuệ sáng suốt hết sức tầm cầu đạo giải thoát, thường thường thân cận cúng dàng lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy với trò được biết với nhau rồi, chừng đó mới lấy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo. Tâm truyền cho tâm in như các vị tổ trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt. Đây tên là Minh-Sư Khẩu-Thuyết , nếu người có duyên gặp đặng, không luận căn lớn hay nhỏ cũng thành đạo Phật”
Đức Phật đặc biệt căn dặn các Phật tử TU HẠNH BỒ TÁT khi cứu độ chúng sinh phải quán xét thật kỹ: “…biết người chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng truyền, nếu có thiện nam, tín nữ chơn chất, trí tuệ sáng suốt hết sức tầm cầu đạo giải thoát, thường thường thân cận cúng dàng lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy với trò được biết với nhau rồi, chừng đó mới lấy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo. Tâm truyền cho tâm in như các vị tổ trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt.

Có người phát tâm xin cúng phần đất gia đình mình đã khai phá để cung thỉnh hành giả làm TỊNH THẤT lưu trụ TU TRÌ và cứu độ chúng sinh ở xử này… như gia đình chú hai Học, gia đình Bác Hai Long, gia đình chú Hai Phụng, là cán bộ tập kết ra Bắc nay về hưu, và chú Ba Thắng Phó ban công an xã TÚ AN, Huyện An Khê, Tỉnh Gia Lai….xin cúng cả ha đất bên bờ suối sát đường.
          Nói là “cúng” nhưng xét cho kỹ thì đều có tính cách như đổi chác… vì biết Hành Giả đã dung nhiều phương tiện cứu giải nhiều bệnh tật nan y nguy cấp, nghiệp chướng khổ não như “trùng tang liền táng” các việc làm nhà “phạm cung tuyệt mạng” như phạm “Tuổi Kim lâu” v.v. để cuộc sống phải chịu nhiều khổ sở nghiệp chướng cho đệ tử ở các nơi như SÀI GÒN. BÀ RỊA VŨNG TÀU, LÂM ĐỒNG, BÌNH THUẬN, BÌNH ĐỊNH, BUÔN MÊ THUỘT. MIỀN BẮC…Và muốn sở hữu “Ông Thầy” chỉ muốn cứu chữa riêng cho Gia đình nhà mình mà thôi!
          “Ai cúng TAM BẢO như đổi chác
  Độc quyền giữ Thầy của riêng mình
  Muốn chẳng toại Tâm liền khắc bạc,
  Mặt làm ra trọng dạ buồn khinh! ”
Hành Giả xét thấy tâm ý của nhiều người không phải thật tâm cúng đất để mong cầu lợi ích chung cho nhân dân địa phương, thực ra chỉ mạng tính cách “trao đổi hai chiều”…có một số người vì không hiểu đã chịu thỉnh hỏi cho thông suốt tỏ rõ lại nảy sinh tà kiến bày đặt, dựng chuyện moi móc, ngang ngược…nhiều người khuyên giải cho thấy điều hay lẽ phải mà họ cố ý không nghe theo điều tốt, cho nên HÀNH-GIẢ quyết định không lưu trụ lại nơi này nữa!
          Đêm trước khi rời khỏi thôn AN-THẠCH chú Ba Thắng Phó ban công an xã TÚ AN, đã tha thiết cung thỉnh HÀNH-GIẢ lưu trú lại nơi đây để cứu độ cho nhân dân vùng cao nguyên hẻo lánh xa Thầy thiếu thuốc này. Rất nể lời cầu thỉnh  của Bác Sáu Cơ là Chủ Tịch xã TÚ AN, chú Năm Thạnh là Trưởng Ban Công An, chú Ba Thắng Phó ban công an xã TÚ AN, chú Bảy Tài là Trưởng thôn…đều là những cán bộ được nhân dân tín nhiệm bầu ra. Đại diện cho Dân để tìm những người tận tâm cứu giúp cho bà con địa phương mình bớt phần cực khổ!…
HÀNH-GIẢ Rất cảm mến đáp lời với tấm lòng chân thành đó là;
- “ Thấy sự nhiệt tình tận tâm của các Bác, các cô, các chú là những người cán bộ thực sự lo lắng tìm mọi phương tiện giúp cho nhân dân địa phương nhà được hết khổ an vui…Dây là những điều tâm nguyện rất quí, tôi sẽ lưu tâm…nếu sau này có nhân duyên tôi sẽ trở lại “
Đầu tháng chạp năm Mậu Dần (1998) gia đình chú Sáu Khuất ở xã JA-CHIM thuộc thị xã KON TUM, Tỉnh KON TUM lại cung thỉnh HÀNH GIẢ tới cứu độ cho dân cư miền cao nguyên nhiều sắc tộcngười Thượng, trên một vùng đất rộng mênh mông đủ các yếu tố:
                    “ Trồng thuốc cứu người, Hoa cúng PHẬT
   Lương thực rau xanh hợp TU trì …
   Bên bờ suối nước vừa có đất,
   Rừng cây núi đa tiện đường đi. ”
Đứng trên một ngọn núi phóng tầm mắt bốn phương tám hướng nhìn toàn thể đại cuộc là một MẠN ĐÀ LA khổng lồ núi non nhấp nhô trùng điệp…tại chính cuộc như một chiếc ngai lớn, lưng tựa vào núi vững chắc, hai tay ngai có phân chia tả thanh long hữu bạch hổ rõ rang. Hướng Tây chếch Tây Nam 10  độ phía trước nhìn thẳng xuống đập nước IA LY lien tiếp chạy ra xa tận chân trời là những dãy núi trùng điệp tạo thành một ĐẠI MẠN-ĐÀ-LA như có bàn tay kỳ diệu nào đó đã khéo làm nên kiệt tác!...Đây là một thế đất rất quý phát về phần dương cơ của khoa PHONG THỦY.
-        Tả Thanh Long qui phục
-        Hữu Bạch Hổ Triều lai
-        Hậu sơn cao bao bọc
-        Tiền thủy thâm minh đài
Khí hậu của vùng cao nguyên trên mực nước biển hơn 600 m này thật thoáng mát ôn hòa từ 180 – 280
Khi lạnh lắm mới xuống 150 , nóng lắm mới lên tới 300 độ
Vợ chồng chú Sáu Khuất, rất tha thiết ân cần tận tâm tận lực làm mọi thủ tục hành chính để thỉnh rước HÀNH GIẢ về cứu độ cho xứ sở của mình. Ông chủ tịch xã JA CHIN là người dân tộc Ê ĐÊ, khi tiếp chuyện thức Xoa-ma-na BỒ TÁT giới Thích Nữ Chân Ngọc tới lien hệ các thủ tục giấy tờ Ông chủ tịch xã JA CHIN nguyên trước đây là một tín đồ thiên chúa giáo rất vui vẻ nói:
-        Cô về thương với Thượng Tọa rằng: các dân tộc vùng cao chúng tôi rất mong được đón Thượng Tọa cùng quí sư, các lương y và các nhà hảo tâm tới cứu chữa bệnh, giúp đỡ cho đồng bào chúng tôi bớt cực khổ…chúng tôi cảm ơn nhiều.
-        Thượng tọa giảng dạy cho chúng tôi rằng: trong mười năm kháng chiến chống Mỹ 
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”
Trước đây là Thượng tọa là bộ đội chiến đấu ở chiến trường K ( Căm pu chia) và chiến trường B2­ (Nam Bộ). Năm 1969 có hành quân qua chiến trường B3(Tây Nguyên)…Hồi đó lúa bắp các loại cây lương thực bị phi pháo và chất độc hóa học của Mỹ tàn phá gần như bị hủy diệt thành một vành đai trắng. Đồng bào các dân tộc vùng Tây nguyên vẫn bòn mót dành cho các chú bộ đội giải phóng quân từng gùi bắp gùi gạo tiếp thêm sức mạnh để đánh thắng giặc Mỹ… còn đồng bào các buôn làng lại ăn củ mì và đi đào củ rừng ăn trừ bữa… trông cho mau tới ngày giải phóng Miền Nam…
          Thượng Tọa thường dạy cho chúng tôi biết đồng bào các dân tộc vùng cao tuy nghèo khổ nhưng rất tốt bụng. Suốt 20 năm TU HÀNH Thượng Tọa không thích ở nơi phố thị rộn rang, chỉ vui ưa  ở những nơi rừng núi để cứu giúp cho đồng bào nghèo khổ…
- Ôi! Thượng Tọa thương các dân tộc vùng cao như vậy… thật là người tốt bụng!…
*
*       *
          Đầu xuân kỷ mão (1999) các đệ tử vùng Bắc Ninh, Hà Nội cầu thỉnh HÀNH-GIẢ ra cứu độ cho các đệ tử ở phương Bắc có nhiều nhà TRí Thức nhà nghiên cứu khoa học khi được đọc thi phẩm “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN-THẠCH ??? ” với ba dấu ??? đi tiếp theo có đặt vấn đề rằng: “ Những điều trong bài thơ chỉ dành riêng cho miền AN THẠCH, xã TÚ AN, Huyện AN KHÊ, Tỉnh GIA LAI thì chúng sinh ở khắp mọi nơi thì làm sao được hưởng ân phước cứu khổ ban vui của TAM BẢO?”
          Nhạc sỹ Lê Thanh Bảo là chuyên viên thuộc “Viện nghiên cứu tuyên truyền giáo dục nghệ thuật âm nhạc, văn hóa truyền thống phục hưng” thuộc “ Viện âm nhạc Bộ Văn Hóa Thông Tin” Khi hiểu Phật Pháp đã qui y TAM BẢO có Pháp danh là Thành Hưng.
Xin phát nguyện TU HỌC dũng mạnh tinh tấn, trở thành một Phật tử thuần thành là Ưu Bà Tắc BỒ TÁT GIỚI.
          Thiện nữ Phạm Thị Bình tốt nghiệp trường Đại học kinh tế thương mại khoa Kế toán năm 1986. Kế toán trưởng “nhà hàng số 76 phố Hàng Trống liên hiệp các công ty ăn uống và dịch vụ Hà Nội”  cùng với một số huynh đệ than thiết tìm về qui y TAM BẢO. Phạm thị Bình có Pháp danh là: Giác An. Phát tâm xin lãnh thọ giáo pháp đại thừa BỒ TÁT GIỚI tu BỒ TÁT HẠNH từ tháng 7 năm Mậu dần (1998) là một phật tử thành tín ưu bà di Bồ Tát Giới.
          Thiện nam Hồ Viết Thịnh là sinh viên năm thứ ba trường Đại Học Bách Khoa khoa Điện tử viễn thông, đã cùng cả quyến thuộc trong gia đình mình đều xin qui y TAM BẢO
Phát tâm xin lãnh thọ giáo pháp đại thừa BỒ TÁT GIỚI tu học công hạnh ĐẠI THỪA từ tháng 7 năm Mậu dần (1998). Hồ Viết Thịnh Pháp danh là: Giác Thuyết.
          Đôi ban đời là thiện nam Đinh Hữu Hối và thiện nữ Bạch Thị Tha người mường miền núi Tản Viên hiên ngang và song Đà hùng vĩ đều xin qui yTAM BẢO Phát tâm xin thọ trì Phật pháp là Phật tử thành tín Ưu Bà Tắc Ngũ giới.
-        Đinh Hữu Hối Pháp danh Thành Đạt Ưu Bà Tắc Ngũ giới
-         Bạch Thị Tha Pháp danh Diệu Thành.
*
*          *  
Tất cả những Phật tử đó khi được về qui y TAM BẢO và khi được thọ trì giáo pháp đại thừa của ĐỨC PHẬT đều tán than rằng:
     Chỉ có những Phật tử chân chính thọ trì được giáo pháp của Phật. Phát tâm dũng mạnh tinh tấn TU HỌC ĐẠI THỪA BỒ TÁT HẠNH; Tự độ -Độ Tha Tự Giác – Giác Tha mới thật sự cứu mình và cứu người thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi. Vừa làm người Lữ khách đồng thời mỗi người đều phát nguyện làm thủy thủ chắc tay chèo. Theo sát vị THUYỀN TRƯỞNG dày dạn kiên cường luôn cầm chắc tay lái chiếc THUYỀN BÁT NHÃ tránh khỏi đá ngầm và những dòng nước xoáy. Lướt qua mọi phong ba bão táp chuyên chở vô lượng hữu tình có duyên vượt trung dương sinh tử cặp bến bờ GIẢI THOÁT.
“ Băng ghềnh thác thuyền lướt về bên giác
   Thắng Ma quân nguyện QUYẾT THOÁT dòng mê!
   Đưa chúng sinh qua biển khổ NGUYỆN THỀ!
   Niệm cứu khổ: NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
   Nguyện chúng sinh phát tâm TU-GIẢI-THOÁT
   Lạy TỪ PHỤ TÂY PHƯƠNG đồng tháp cánh bay về ! ”
(Trích trong bài “ NGƯỜI TU-GIẢI-THOÁT ”)

Các phật tử xuất gia và các Phật tử tại gia như: Chân Ngọc, Giác Tâm, Giác An, Giác Thuyết, Thành Đạt, Diệu Thành…cùng một số người hữu duyên tới cung thỉnh HÀNH-GIẢ:
Kính xin ân phước của TAM BẢO, kính xin ân đức của Thượng Tọa đã dung mọi phương tiện cứu độ cho miền AN THẠCH duyên khởi, ban phát cho các đệ tử thân tín hữu duyên ở khắp nơi đều được hưởng ân phước cứu độ của TAM BẢO, hóa giải hết mọi khổ đau sầu não.
HÀNH-GIẢ đáp:
Hưởng phước lành thì ai cũng muốn. Nói thì nhiều người có thể nói được, nhưng làm thì không đơn giản dễ dàng…Lấy một thí dụ khoa phong thủy ở thế gian cần có 3 yếu tố căn bản: 1- Thiên thời, 2- Địa lợi, 3- Nhân hòa. Yếu tố nhân hòa đứng thứ 3 mà lại có vai trò quan trọng nhất “Nhân hòa” túc là “Đắc nhân tâm” “nhân bất hòa ” tức là “ thất nhân tâm”. Nếu “nhân bất hòa ” thì hai yếu tố “Thiên thời” “Địa lợi” không đem lại điều tốt mà kết quả còn biến quái. Sinh ra nhiều việc tệ hại…( Như những điều bất tường đã xẩy ra ở Quảng Phương Tịnh Xứ non Thị Vải tháng 7 năm Đinh Sửu (1997) và tại miền AN THẠCH Tây Nguyên Tháng 11 năm Mậu Dần (1998)). Muốn được hưởng ân phước của TAM BẢO gia hộ cho được sung mãn, đã có 3 yếu tố trên rồi cần có hai yếu tố quan trọng nữa tất cả là:
1- Thiên thời,
2- Địa lợi,
3- Nhân hòa
4- Quốc Vương duyên ( Với thời gian hiện tại là việc thực hiện các chính sách và sự quan tâm của Quốc Gia )
5- Ngoại hộ duyên ( Sự phát tâm hộ trì của các đệ tử và sự ủng hộ của đàn na tín thí )

Những điều phước duyên này có thể thực hiện được tùy từng cá nhân, hoặc từng gia đình nếu biết đồng tâm nhất trí thọ trì Phật Pháp thì sẽ hưởng được ân phước sung mãn của TAM BẢO…
Nếu mong cầu cho khắp nơi đều được hưởng duyên phước sung mãn của TAM BẢO thì thật là điều lý tưởng! Phải phấn đấu rất nhiều, và rất khó khăn, là thương sách “Đắc nhân tâm”, công trình của thời đại, công việc đáng quan tâm của Hàng nguyên thủ quốc gia? Không phải công việc của một cá nhân có thể làm được!... Nhìn ngược dòng lịch sử ta thấy các triều đại LÝ-TRẦN đã thực hiện được không phải lý tưởng hão huyền viển vông nữa. Thời đó; vì đã khéo vận dụng PHẬT PHÁP đưa Phật giáo thành Quốc Đạo làm cho Quốc gia hưng thịnh – được khoảng 400 năm. Có những giai đoạn cực thịnh như giai đoạn“bình Chiêm-phạt Tống”của nhà Lý và giai đoạn “ba lần chiến thắng Quân Nguyên”
của nhà Trần… Với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ…với TỐI THƯỢNG SÁCH ĐẮC NHÂN TÂM VÔ CÙNG TẬN đồng tâm hiệp lực từ vua quan triều đình xuống tới muôn dân, thành tín trước sau như một. Lúc bấy giờ mỗi sự kiện lịch sử kết quả đều thành công rực rỡ. Không để lại những hậu quả đau thương đáng tiếc. Đó là lẽ tự nhiên của luật gieo nhân hưởng quả…Giờ đây muốn học và THỰC HÀNH được BÀI HỌC NGÀN VÀNG của các bậc THÁNH TIÊN-VƯƠNG  không phải đơn giản dễ dàng…
          Bây giờ tôi cho các vị đọc vài trang của bộ sách “GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY” do Ni Sư Trí Hải Tiến Sĩ PHẬT HỌC hiện đang là giáo sư của trường ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO VẠN HẠNH tại Thành Phố Hồ Chí Minh dịch từ bản Anh Văn ra Việt Văn. Phần nói về các vị PHẬT tử, Quốc Vương, Đại Thần, Khanh Tướng các học giả Bác học…cầu thỉnh TAM BẢO ban ân phước cho xứ sở mình được hưởng những tinh hoa của PHẬT PHÁP đã sẵn sang hy sinh xả thí than để tỏ tâm thành kính cầu thỉnh TAM BẢO chứng minh và gia hộ cho xứ sở mình như thế nào?
2) TẠI TÂY TẠNG
Những giáo lý phổ cập đầu tiên đến Tây Tạng vào lúc bấy giờ đã mai một. Sự truyền bá giáo lý hậu kỳ đã được thịnh hành. Nhưng một số người tập trung vào tạng luật và bỏ qua mật giáo; một số khác thì ngược lại. Kinh giáo và mật giáo trở thành đối chọi nhau như nước với lửa. Nhiều bậc học giả nổi danh từ Ấn đến Tây Tạng, bị viễn ảnh vàng ở đấy dụ dỗ. Họ lừa bịp người bản xứ với nhiều mật điển xấu ác và đầy dục tính. Tình trạng đã hóa thành hết sức khó khăn để gieo rắc nền giáo lý thuần tịnh của đấng Chiến thắng. Quốc vương Tây Tạng bấy giờ là Lhalama Yeshe Oe rất đau lòng trước tình trạng ấy. Vì muốn hoàng truyền nền giáo lý thuần tịnh, ông đã gửi hai mươi mốt sinh viên thông minh của Tây Tạng sang Ấn hầu mong khi họ trở về sẽ thành những bậc hiền trí có thể ích lợi hơn cho dân Tây Tạng. Tất cả họ đều chết chỉ còn lại hai vị Rinchen Zangpo và Legdaen Sherab; cả hai đều trở nên tinh thông giáo lý nhưng vẫn chưa có thể rước Atìsha theo họ về Tây Tạng. Khi về nước, họ yết kiến vua để bàn cách làm thế nào để hòa hợp kinh giáo và mật giáo với cách hành trì và tin tưởng của mọi học giả Ấn. Họ nói: “Những học giả kia không ích lợi gì cho Tây Tạng. Ở Vikramashìla, có một vị tăng dòng dõi vua chúa đã đạt giải thoát. Ngài có danh hiệu là Dipankara Shrijnàna. Nếu bệ hạ mời được vị ấy thì chắc chắn sẽ lợi lạc cho Tây Tạng. “Họ cũng nói rằng tất cả những học giả khác đều đồng ý về điểm này.”
Lời nói của họ làm cho vua an tâm, nhưng quan trọng hơn nữa là, vua đã phát sinh một lòng tin mãnh liệt không lay chuyển ngay khi vừa nghe đến danh hiệu của ngài. Vua phái Gyatsoen Senge cùng với tám vị khác đi rước Atìsha về. Họ đem nhiều vàng, nhưng họ đã thất bại. Chính vị vua cầu Pháp cũng đi tìm thêm vàng để có thể rước bậc hiền trí ấy về xứ mình.
Trưởng bộ lạc Garlog biết vị vua đang tìm cách để truyền bá Phật pháp nên bắt cóc nhà vua cầm tù và hăm dọa sẽ giết nếu không bỏ ý định, Jangchub Oe cháu gọi vua bằng chú, đến tìm cách giải thoát cho ngài, nhưng viên tù trưởng nói: “Một là người bỏ ý định rước học giả ấy về nước, và ngươi phải làm nô lệ cho ta, hai là đem một số vàng bằng sức nặng của vua, thì ta mới thả vua về.” Jangchub Oe hứa giao vàng. Ông đưa ra hai trăm lượng vàng mang theo, nhưng người tù trưởng nhất định không chịu. Cuối cùng ông đem tất cả số vàng nặng bằng sức nặng của con người vua trrừ cái đầu. Tù trưởng cũng không bằng lòng, bảo: “Tôi cần cả đầu, tất cả.”
Jangchub không có cách nào kiếm thêm vàng, nên đến cửa ngục khóc và thưa với nhà vua: “Chú ơi, chú đã sống rất nhân từ, nhưng chú phải là nạn nhân của nghiệp của quá khứ. Nếu cháu cử binh để đánh bại tên tù trưởng này thì sẽ có rất nhiều người chết và cháu sợ chúng sẽ đọa vào cõi thấp xấu. Tên tù trưởng này bảo cháu không được đi mời vị học giả này về, và phải làm nô lệ cho y. Nhưng nếu chúng ta từ bỏ Pháp Phật thì tức đã đầu hàng tên tù trưởng tội lỗi này. Cháu nghĩ là tốt hơn chú hãy kiên trì với chánh pháp. Y bảo cháu phải đem một trọng lượng vàng bằng cả người chú, nhưng cháu chỉ kiếm được số vàng nặng bằng thân thể chú ngoại trừ cái đầu. Y không chịu, nên bây giờ cháu lại ra đi tìm thêm vàng cho đủ số để chuộc chú về. Trong thời gian đó, xin chú hãy nghĩ đến nghiệp quá khứ của chú, cầu xin Ba ngôi báu, và nhất là chú nên dũng cảm mà tạo phước nghiệp.”
Ðức vua cười lớn mà bảo: “Ta cứ tưởng là cháu đã sống một đời dễ chịu sung túc nên không chịu nỗi gian nan, không có chút can đảm nào. Bây giờ ta mới thấy cháu có thể chấn hưng truyền thống của tổ tiên sau khi ta chết. Cháu đã hành động rất tốt, ta rất hài lòng. Ta nghĩ thật sai lầm nếu ta chết mà chưa thiết lập được một nền chánh pháp không lỗi lầm cho xứ Tây Tạng. Ta đã già, và nếu chưa chết bây giờ thì ta cũng chỉ sống thêm mười năm nữa là cùng. Nếu ta bỏ ra quá nhiều vàng như thế chỉ để sống thêm chừng ấy tuổi, thì thật làm cho Ba ngôi báu cũng thất điên bát đảo. Trong những đời quá khứ của ta trong vòng vô thỉ sinh tử, ta chưa có một lần nào được chết cho chánh pháp. Vậy thì, cháu đừng đưa cho tên tù trưởng một vụn vàng nào cả, thật tốt biết bao nếu ta được chết cho chánh pháp. Mà chúng ta có thể đào đâu ra được số vàng để chuộc cái đầu ta? Hãy đem hết vàng đi Ấn Ðộ, và làm mọi cách cháu có thể làm để thỉnh bậc hiền trí Atìsha về.
Nếu ngài cho con tiếp kiến, thì hãy trao lại thông điệp này của ta: “Con hy sinh mạng sống vì giáo lý của Phật và của chính ngài. Xin hãy che chở cho con trong những đời còn lại, bằng lòng bi mẫn của ngài. Ý định duy nhất của con là rước ngài về Tây Tạng; và con làm thế chỉ vì mong cho giáo lý Phật được lan truyền khắp xứ. Bởi vậy xin ngài hãy chấp nhận lời yêu cầu của con. Xin hãy gia hộ cho con để chắc chắn chúng ta sẽ gặp gỡ trong những đời vị lai.” Này cháu, cháu hãy quên chú đi, và nghĩ đến những lời dạy của đức Phật.”
Nhà vua đã yếu, giọng ngài rất đổi thương tâm, nhưng Jangchub có thể tin chắc ngài chỉ nghĩ đến thần dân Tây Tạng, đến giáo lý Phật, và đến Atìsha. Ông bất đắc dĩ phải từ giả người chú thân yêu. Lòng ông thêm can đảm, và ông đã hành động đúng theo ước nguyện của người chú”.
Đại Thần, Khanh Tướng Thượng lưu, Trí thưc …đã dùng mọi phương tiện để tỏ tâm ân trọng thành kính cầu thỉnh TAM BẢO cứu độ cho xứ sở mình được hưởng những tinh hoa của PHẬT PHÁP đã như vậy rồi. Tôi cho các vị đọc một phần này nữa:
Ngày nay vua chuyển luân Aranemi có một ngàn con trai người nào cũng phát tâm BỒ ĐỀ, hứa sẽ săn sóc một nhóm đệ tử. Nhưng ho thấy những đệ tử sẽ khó điều phục vào thời đại hỗn mang khi mà thọ mạng con người chỉ còn 100 năm, bởi thế họ đều tảng lờ những đệ tử này.
          Chúng ta đang song trong thời kỳ kiếp số giảm, cứ sau một trăm năm tuổi thọ của con người đều giảm đi một tuổi. Thời ĐỨC PHẬT THÍCH CA  thị hiện trên thế gian này  cách đầy gần 26 thế kỷ ( Phật lịch 2543 dương lịch năm 1999 ). Thời bấy giờ tuổi thọ bình quân của con người là 100 năm. Hiện nay người nào sống được bảy mươi tuổi đã là trường thọ rồi có câu thơ cổ nói: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy ” nghĩa là “ người thọ bảy mươi tuổi xưa nay hiếm ”. Do công nghiệp si mê tham lam tàn ác của chúng sinh tạo nên chiến tranh tàn khốc lien mien. Nên các thiên tai, động đất, sụt lở, hạn hán lũ lụt, bão bệnh tật, ôn dịch.v.v. xẩy ra không ngớt làm cho tuổi thọ con người giảm sút quá nhanh.                        
          Lịch sử PHẬT giáo gọi giai đoạn tuổi thọ trung bình của con người từ 100 tuổi trở xuống là “thời kỳ hỗn mang” tâm của loài người nhiều kẻ hỗn độn đảo điên…rất khó giáo hóa, còn tệ hơn loài thú rừng hoang dã…càng xa về thế kỷ sau của kiếp số giảm càng khó thuần phục:
“ “ Kiếp giảm đọ người …ôi khó quá!                                                                                               Bồ - Tát lắm NGÀI phải … “chào thua”! ”
“tảng lờ những đệ tử này” là đành phải “chào thua” những đệ tử quá si mê tham ác. Vì thấy không thể đảo lộn luật nhân quả, không thể gánh hết những trọng nghiệp mà họ đã tạo ra. Khi họ đã không thực tâm tu cho tiêu trừ tội lỗi. Thì không ai có thể gánh thay tất cả những nghiệp chướng và tội lỗi của họ đi được!...
Việc muốn độ cho người được hưởng phước duyên lành, cũng ví như người thưởng thức một mâm cỗ đầy những thức ăn ngon bổ với hương vị thượng hạng. Cần xét xem người đó có bị bệnh đau dạ dày hay một căn bệnh nào khác không? Nếu không khéo xét để cho người bị bệnh ung thư dạ dày giai đoạn 3 gần vỡ. Ham ăn đồ béo bổ bị thương thực (Trúng thực). Không cấp cứu kịp phước lành đáng lẽ được hưởng lại biến thành tai họa!...
Phương thuốc THẬP TOÀN ĐẠI BỔ không phải ai dùng cũng đều tốt cả. Ngôi vị đế vương không phải ai ngồi cũng yên cả đâu!...
          - Kính bạch Thượng Tọa! tất cả đệ tử chúng con xin phat nguyện TU HỌC TINH TẤN theo đúng chính pháp của ĐỨC PHẬT đã truyền dạy.Diệt trừ tam độc tham sân si trở thành những PHẬT tử chân chính, có trí tuệ sáng suốt, vững niềm chánh tín HỘ TRÌ NGÔI TAM BẢO. Không mê mờ lầm lạc chạy theo sự phỉnh phờ lừa gạt của đám tà sư ngoại đạo. Chúng con nghĩ rằng những điều phước thiện làm cho ích nước lợi dân. Theo như chính sách nhà nước ban hành, những điều tốt lành thực sự “hữu xạ tự nhiên hương”
Nhất định sẽ nhiều người kính ngưỡng. Chúng con nguyện tân tâm tận lực để làm cho xứ sở của mình mãi mãi được thái bình thịnh vượng. Cầu xin Thượng Tọa TỪ BI xót thương chứng minh và gia hộ cho tất cả huynh đệ chúng con ở khắp mọi nơi.  Chúng con đều gắng làm lành lánh dữ cùng vui hưởng trọn vẹn phần phước duyên không phải chỉ dành riêng cho miền AN THẠCH. Mà còn làm cho thông đi để khắp nơi cùng hưởng.
          Như vậy theo ý các vị muốn chuyển đầu đề của thi phầm “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH???” bỏ ba dấu hỏi để hưởng được phước duyên lành sung mãn mãi mãi mai sau thành: “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI”? còn tạm để lại một dấu chấm xem sao?
- Kính xin Thượng Tọa bỏ luôn dấu chấm hỏi đó đi cho chúng con sơm sđược ân hưởng phước duyên trọn lành đó ạ! Chúng con xin phát nguyện quyết làm cho được như vậy.
*
*          *
HÀNH-GIẢ nhìn vào hư không mênh mông nói thì thầm như hòa nhập cùng mây gió:
- Giờ đây ta biết được rằng: Từ bấy lâu nay ở thế gian này ta toàn làm việc công cốc  “cốc mò cò xơi” rồi lại hưởng oan nghiệt triền miên nối truyền của dòng Nguyễn Trãi ! làm kiếp dã tràng xe cát mãi!...là ông lão Ngu Công lông bông, suốt đời làm mướn không công. Chỉ có luật nhân-quả ghi chép được chính xác và xét xử mọi việc công bình nhất:
                    “Kẻ lo tranh được” không sợ “mất”?
                      Người “mất ” hết rồi được cái KHÔNG!”
THỰC HÀNH:  “TỪ-BI-TRÍ-DŨNG cùng HỶ-XẢ
Biết rõ rằng: “Khứ lai” “Đắc Thất” cũng tương đồng!”
Chẳng còn gì phải vướng bận với trần gian này nữa, làm cánh chim bay vút vào hư không vô tận.

(2)        Hai câu:  “ Thường ăn lộc búp cây Van Tuế
Tư sản Hoa Kỳ được ăn không?”
Hiện nay ở nhiều nơi sang trọng như những khách sạn, công viên biệt thự v.v.. người ta cho lùng tìm kiếm những cây cảnh quí tượng trưng cho sự vinh hoa vĩnh cửu, như những cây Thiên Tuế Van Tuế…
          Trong sách Từ điển “Cây thuốc viêt ” trang 1312 Giáo sư Phó Tiến Sĩ Võ Văn Chi có viết: Cây Vạn Tuế
Bộ phận dùng: Hạt, lá, nón, rễ - semen, Folium, cous, et Radix cycatis Revolutae
Nơi sống và thu hái : Loài cây của Nhật Bản được trồng ở Nam Trung Quốc, Đông Ấn Độ và Việt Nam. Ở nước ta cây được trồng làm cảnh ở nhiều nơi ( Giờ đây sau chưa đầy một tháng tới nghiên cứu dược liệu tại vùng đồi núi thuộc xã TÚ AN, Huyện An Khê, Tỉnh Gia Lai Đông Y Sĩ Nguyễn Thế Định (TU SĨ Thích Quảng Định) tiếp nối sự nghiệp cứu nhân độ thế của Tổ Sư Tuệ Tĩnh đã biết được trên miền cao nguyên này có nhiều cây Thiên Tuế cao tới 6-7 m, nhiều cây Vạn Tuế cùng nhiều loại thuốc quí khác mà nhân dân địa phương chưa biết tận dụng, đã phá bỏ một cách uổng phí !)
Thu hái các nón và hạt (cây Vạn Tuế) vào mùa hè thu, rửa sạch phơi khô dùng dần lá và rễ thu hái quanh năm.
Thành phần hóa học : Thân cây có bột như bột cọ, chất màu, các axits béo ; palmitic, stearic, oleic, behenic và các azoxyglucosid. Hạt chứa 25 % dầu cyca sin, insiton, piniton, cholin, trgonellin, adenin, hystidin.
Tính vị tác dụng : Vị ngọt nhạt tính bình lá có tác dụng thu liễm chỉ huyết giải độc chỉ thống. Hoa có tác dụng lý khí, chỉ thống, ích thận, cố tinh. Hạt có tác dụng bình can, giáng huyết áp. Rễ có tác dụng khu phong, hoạt lạc, bổ thận.
Công dung : Lá được dùng trong các trường hợp xuất huyết viêm dạ dày, loét dạ dày tá tràng, huyết áp cao, đau dây thần kinh, mất kinh, ung thư. Hoa chưa đau thượng vị, di tinh, bạch đới, đau kinh. Hạt dùng trị huyết áp cao. Rễ dùng trị lao phổi, đau răng đau thắt lưng, bạch đới, thấp khớp tạng thống phong, chấn thương, bị thương.
          Liều dùng lá và hoa 3- 6 g, hạt và rễ 10 -15g dạng thuốc sắc.
“Ghi chú: Hạt và ngọn thân có độc khi dùng phải cẩn thận.”
(3)
                    “Đại tỷ phú hơn ngàn nhà tỷ phú
 HẠNH THIỂU DỤC TRI TÚC quí đẹp sao?
 Giàu PHƯỚC TUỆ CÔNG ĐỨC như núi tụ
 Luôn xả ra bố thí chẳng vơ vào ! ”
( Trích trong bài “Bóng nhạn lưng trời” từ câu 341-344 chuyển sang)
Được làm học trò của bậc Đại Y Vương thông hiểu tính năng diệu dụng của từng loại kim thạch, thảo, mộc đồng thời biết rõ mọi căn nguyên bệnh tật nghiệp chướng của chúng sinh mà tùy bệnh cho thuốc.
Được làm đệ tử  của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN HỌC và THỰC HÀNH được công hạnh THIỂU DỤC (ít ham muốn), HỶ TÚC ( vui đủ ), thì ở bất cứ nơi nào, dù là nơi thâm sơn cùng cốc rừng hoang đảo vắng cũng luôn luôn vui đủ an lạc, giàu phước đức trí tuệ. Như vậy? Không phải là giàu hơn cả ngàn nhà tỷ phú ở trần gian?. Sống giữa nơi phồn hoa đô thị, với vô số phương tiện để phục vụ cho đời sống mà hạ vẫn thấy chưa thỏa mãn?...Họ còn muố tìm trăm phương ngàn kế làm sao cho được tận hưởng nhiều hơn nữa… cũng vì thế mà xẩy ra chiến tranh!...
Ôi thế gian thật tội nghiệp vô cùng! Thật đáng thương vô cùng!
Chúng ta đặt vấn đề nếu thế gian này nhiều có nhiều người đặt công hạnh THIỂU DỤC (ít ham muốn), HỶ TÚC ( vui đủ ) thì thật là tốt đẹp biết bao?
                    “ HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ
   THIỂU DỤC kham khổ thích thanh cao
   Giàu trăng giàu gió hơn tỷ phú,
   Tụng Kinh ngâm Kệ ĐẠI THI HÀO!  ”
Được làm học trò của BẬC ĐẠI Y VƯƠNG THẾ GIAN GIẢI, ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU luôn luôn được sức tráng kiện ; ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TRÍ , ĐẠI DŨNG, ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ…sung sướng hoan lạc biết bao! Được làm đệ tử của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN  THÍCH CA MÂU NI PHẬT thật vinh hạnh vô cùng.
Lời bàn: Phần chú thích (1) chú thích (2) là một đoạn bốn câu thơ:
                  “Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế,
Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
“Ăn sang” mà chẳng tốn mấy đồng!(3)”
cây Vạn-tuế mỗi năm chỉ ra lá non có một lần. Theo như phần “tính vị tác dụng” trong sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” ở trên cây Vạn-tuế “ vị ngọt, nhạt, tính bình. Lá có tác dụng lý khí chỉ huyết giải độc chỉ thống”
Lá non của cây Vạn-tuế có nhiều tác dụng quí như vậy,  những món ăn ngon của các nhà tỷ phú trên thế gian này dễ gì sánh bằng !
Xin hỏi các nhà Tư sản Hoa Kỳ  trồng được những cây Vạn-tuế làm cảnh có dám “xài sang” cắt “lộc búp ” mà xào nấu ăn không? Dám chăng chỉ có con BẬC ĐẠI Y VƯƠNG, BẬC ĐẠI TỶ PHÚ ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN  THÍCH CA MÂU NI PHẬT vừa là môn đệ của Giáo sư Bác học Ô-Sa-Wa về môn DƯỠNG SINH “gạo lứt muối mè” mới được.                            “Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế,”
Thế có lạ không chứ!    “Ăn sang” mà chẳng tốn mấy đồng!(3)”
Thật kỳ diệu thay!
(4)             “ Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi  “chè phê” )
Mấy ngày mưa bão Trai ngọ sớm
Tráng miệng chuối ương chấm muối mè”
Suốt một tháng ở trong rừng núi của miền cao nguyên thôn AN THẠCH, xã TÚ AN, Huyện AN KHÊ, Tỉnh GIA LAI:
                    “ Lều treo bên suối không phên vách
  Gió lộng mênh mang chin phương trời
Và:               “ Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
  Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa,”
Thức ăn là những món rau rừng cũng là các dược thảo quí có nhiều tính năng chữa bệnh rất tốt như “ Cây rau má, lá rau muống, cuống rau răm”  “ cây cải trời ” “ cây rau diệu” “Rau tàu bay” “ Cây thiên tuế ” “Cây Van Tuế” … mọc tự nhiên trên đồi ven suối.
                    “Đi hái rau rừng xem địa lý!”
Vẫn thong thả ung dung ngâm nga thi kệ, thưởng thức
“ Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi  “chè phê” )
Dễ gì có mấy ai hàng Giáo sư Tiến sỹ hay các nhà tỷ phú ở Thủ đô Hà Nội hay “ Hòn Ngọc Viễn đông” Sài Gòn có được “ Đi cắm trại” bên bờ suối nơi thâm sơn cùng cốc miền AN THẠCH này “ độc ẩm ” đặc sản “ chè phê ” của các đệ tử vùng kinh tế mới LÂM ĐỒNG nghèo tiền bạc mà giàu đạo tâm sâu năng tình nghĩa!...
Câu thơ “ Mấy ngày mưa bão Trai- ngọ sớm ”
“Trai- ngọ” là nói về việc các vị xuất gia TU HÀNH theo giáo pháp của ĐỨC PHẬT: trong ngày chỉ ăn có một bữa vào giờ ngọ buổi trưa ( Từ 11 h- 13 h) trước khi ăn phải hành pháp “ Tam đề ” ba lần mỗi lần cầm cái muỗng nhỏ xúc chừng 7 hạt cơm đưa vào miệng thầm niệm:
- Sơ đề nguyện đoạn nhất thiết ác (Điều thứ nhất: nguyện dứt bỏ tất cả những điều ác)
- Nhị đề nguyện tu nhất thiết thiện ( Điều thứ hai: Nguyện làm tất cả những việc thiện)
- Tan đề nguyện đô nhất thiết chúng sinh (Điều thứ ba: Nguyện cứu độ tất cả chúng sinh)
Trong khi ăn lại nhiếp tâm hành pháp “Ngũ quán”:
Ăn cơm có quán niệm là ăn cơm trong chánh niệm, ăn cơm trong tỉnh thức, ăn cơm trong an lạc. Quán niệm như sau:
1. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: "Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác.”
2. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: "Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này.”
3. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: "Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật tham lam.”
4. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: "Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.”
5. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: "Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.”
Ăn chay vào giờ ngọ mới gọi là “ Trai Ngọ ” “ Ngọ Trai” hay “ Thọ Trai”
Vì mấy ngày mưa bão của cơn bão số 7 (năm 1998) kéo dài không ra ngoài trời làm việc được nên đành ở:   “ Lều treo bên suối không phên vách
   Gió lộng mênh mang chin phương trời”
Thế mà vẫn thấy:   “ Thầy ngồi cặm cụi bên chồng sách,
   Tìm phương cứu chữa bệnh nơi đây,
   Gió núi mưa rừng miền An Thạch,
   Thiếu thuốc đường xa, khó rước Thầy.”
Và truyền dạy cho các đệ tử làm công việc của một nghiên cứu sinh VIỆN ĐẠI HỌC ĐÔNG Y như trước đây mình đã quen làm; là tra cứu, biên chép phần dược tính công năng diệu dụng của các loại được thảo vùng chuyển tiếp cao nguyên này. Mõi người mỗi việc tuy bận rộn nhưng vẫn sắp xếp “trai ngọ sớm” được.
Buổi sáng đã thưởng thức “chè phê” đặc sản của đệ tử Lâm Đồng cúng rồi thọ trai xong lại: “Tráng miệng chuối ương chấm muối mè
Trước đây khi ở Núi Thị Vải Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu  năm 1992 HÀNH GIẢ viết:
                    “ Mùa khô hiếm nước hoa vẫn đẹp
   Chuối chin vàng tươi vị ngọt ngào, ”
( Trích trong bài “ Tịnh thất non Thị Vải ”)
Màu “chuối chin vàng tươi”  với “ vị ngọt ngào tự nhiên” của nó thì đã quá ngon rồi, cần chi phải ăn kèm thêm gia vị nào khác nữa.
Câu thơ Tráng miệng chuối ương chấm muối mè” ta thấy có từ “ương” hay “ương ương” 
của miền Bắc là từ “hườm hườm” của phương Nam. “chuối ương” là chuối chưa thật chin thơm ngon, mới bắt đầu chuyển từ màu xanh sang màu vàng nhạt. Nếu chuối mới           “ương” mà đã ăn là chuối còn cứng chưa thật chin thơm ngon vẫn còn vị chat, cho nên phải “chấm muối mè” để chế bớt vị chat của nó đi!...
          Từ “ương ” còn có một nghĩa để nói về người như “đồ ương bướng ngang ngược” “Kẻ ương ngạnh ngổ ngáo” tương tự như hồi năm 1989 cứu độ người:
                    “ Vùng kinh tế mới bao xa lạ,
   Gia Lâm, Lâm Hà xứ Lâm Đồng ”
   Lắm kẻ tiểu tâm, đông xảo trá,
   Nhiều người quậy phá ngược, ngang, ngông!”
( Trích bài “Lời nguyện biệt ly” )
Thành ngữ  chuối ương chấm muối mè!” với một dấu chấm than (!) đi tiếp theo phải chăng đây là lời tiên tri mang một hàm ý sâu xa rằng: “ Nếu sau này cứu độ người ở đây, sẽ có những người “ương bướng” thấy người làm phước thiện không dễ gì họ đã vui cầu học tin nghe, trái lại thường “ương ngạnh” điều hay xoay điều dở, tốt trở thành xấu cản găn quậy phá.v.v. Kết quả công việc là; nếu cố gắng lắm cũng như việc “chuối ương” phải “chấm muối mè” mới đỡ chat! Khó có thể làm cho nó “ chin thơm ngọt ngào ngon lành được?! ”
          Quả thật như vậy! sau đó có mấy ngày điều này đã được chứng nghiệm. Rõ rang chỉ có vài người ngăn cản mà nhiều người phải “chịu thua”! để xứ sở đó không được hưởng ân phước gia hộ của TAM BẢO!
                    “ Nhiều Phật tử thua một “trùng sư tử”
   Lắm người TU sợ vài kẻ phá TU
   Chẳng ngăn dẹp tà ma, trừ kẻ dữ
   Loài ác ma, quỉ quái để yên ư ?”
( Trích trong bài « nói chuyện người đến chùa và người ở chùa » )
Thật đáng thương thay! tội nghiệp thay!
(4) Đi hái rau rừng xem địa lý!
      Phơi đồ còn phải xét thiên văn!(5)
Câu “Đi hái rau rừng xem địa lý!” ý nói ở vùng núi có khi lên đồi cao tìm thuốc hái rau (sơn cao dương khí thịnh ), có lúc xuống bờ suối sâu kiếm tầm dược thảo ( thủy thâm âm khí vượng )
          Bấy giờ nơi mình đang ở làm trung tâm điểm đi về hướng Đông cung CẤN là dương, đi về hướng TÂY cung ĐOÀI là âm, hướng BẮC cung KHẢM là âm, hướng NAM cung LY là dương.
          Trong khoa địa lý có những câu châm ngôn “ Sơn cao thủy thâm, ÂM DƯƠNG THỊNH VƯỢNG ĐỊA LINH SINH NHÂN KIỆT ”
 Và câu:       “ SƠN BẤT CAO, THỦY BẤT THÂM
   NAM ĐA TRÁ, NỮ ĐA DÂM ”
Lại có câu:
                    “ TIÊN TÍCH ĐỨC, HẬU TẦM LONG ”
Đây là những yếu tố quan trọng trong việc tìm nơi ở tốt tránh nơi ở xấu của các nhà PHONG – THỦY HỌC cùng các nhà nghiên cứu thực nghiệm như: Y-KHOA, DƯỠNG SINH, TRƯỜNG SINH HỌC, MÔI TRƯỜNG HỌC, THỔ NHƯỠNG HỌC … Có lien quan mật thiết tới các vấn đề âm dương, thủy hỏa và luật bù trừ chế hóa, luật ngũ hành tương sinh, tương khắc cần nghiên tầm thật kỹ lưỡng!...
           Những phàn nói về các cung ứng vào phương hướng như “ CÀN Tam liên (     ) TÂY- BẮC Tuất – Hợi . KHẢM trung mãn (    ) chính BẮC cư Tý…”
Với các hình thể Núi cao, song sâu, hồ đầm, suối khe bao bọc, núi gò che chắn.v.v. thuộc về khoa ĐỊA LÝ.
          Những phần như xem ngày giờ tốt xấu xét chiều gió xem áng mây, xem tinh tú … là thuộc khoa THIÊN VĂN. Thí dụ như các môn:
1-    Xem ngày giờ tốt xấu để dung ngày giờ vào các việc; dung ngày giờ Hoàng đạo, giờ quí nhân, ĐĂNG THIÊN MÔN; tránh các ngày giờ xấu như Hắc đạo, sát chủ, thọ tử.v.v.. ( xem cuốn “Nguyên lý chọn ngày THEO LỊCH CAN CHI ” của GS TS Y KHOA Hoàng Tuấn do nhà xuất bản thông tin văn hóa ấn hành năm 1999 )
2-    Cách nhìn áng mây:
“ Dáng mỡ gà thì gió,
   Dáng mỡ chó thì mưa”
3-    Cách xem chiều gió có những câu như:
“ Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy
   Cơn đằng Tây mưa giây bão giật
   Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi
   Cơn đằng Bắc xúc thóc ra phơi ”!
*
*        *
(5) - Nước Trung Hoa ở vào thời kỳ TAM QUỐC- GIA CÁT LƯỢNG chẳng đã dung pháp lập đàn cầu gió Đông để thắng TÀO THÁO trong trận Xích Bích đó sao?
- Cachs xem tinh tú để biết thời tiết nắng mưa:
Có câu:                  “ Trăng quầng thì hạn,
    Trăng tán thì mưa ”
Các phép xem sao ĐẠI HÙNG TINH, TIỂU HÙNG TINH sao chổi .v.v. để biết được nhiều điều thần bí huyền diệu… Ngoài ra còn nhiều phép xem khác nữa… nên xem cuốn “ Đàm thiên thuyết địa, luận nhân ” được nhà xuất bản thông tin văn hóa phát hành, và cuốn “Mai hoa dịch số” của Thiệu Khang Tiết tiên sinh.
          Câu thơ: “ Phơi đồ còn phải xét thiên văn” !
Có một ý nghĩa thiết thực nhất ở đây là: trong thời gian mấy tháng trời bão nước ngập lụt mưa dầm sùi sụt của cơn bão số 6& số 7 năm 1998. Khi cho chuyên chở đồ đạc cùng mười mấy bao thuốc tới để nhà chú Năm Sương ở thôn An Thạch. Muốn bảo quản đồ đạc và thuốc được khô ráo không “xét thiên văn” cho khéo. Khi đang phơi trời ập đổ mưa xuống, vội vã bốc hốt vào cả trăm thứ thuốc lẫn lộn lung tung!... lúc đó ai có thể hóa thành cô Tấm để thời gian và kiên trì lượm từng vị thuốc nào vào vị thuốc ấy cho khỏi lầm lẫn được…? Trước ngày cho phơi thuốc trời cũng mưa. Hôm chỉ cho các đệ tử phơi thuốc , Ông Trời đã “ưu tiên” dành trọn một ngày đêm nắng ráo đẹp. Thật kỳ diệu thay!
Mấy ngày tiếp sau Trời lại mưa tầm tã các đệ tử bảo nhau “Thầy cho ngày phơi đồ hay quá”. Trong chuyến đi “cứu trợ vô thời hạn” theo hạnh nguyện:
                    “ Thương dân quê mới nhiều khổ nạn
Lễ bạc tâm thành thỉnh vẫn về ”
Và             “ Xót khổ nhân sinh miền biên địa
                     Tìm đâu NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH”
Của HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG kỳ này tại miền An Thạch đã được TAM BẢO chứng minh và gia hộ . Các đệ tử xin phát nguyện được làm việc công đức trong đợt đi cứu trợ lần này Thưc xoa ma na BỒ TAT GIỚI Thích nữ Chân Ngọc, ưu bà di BỒ TÁ GIỚI Lưu THị Hiên Pháp danh Giác Hảo, Ưu Bà Di BỒ TÁT GIỚI PhẠM Thị Bình Pháp danh Giác An, Ưu bà tắc NGŨ GIỚI Đới đăng Nhâm pháp danh Thành Tấn. Tất cả đều rất phấn khởi nỗ lực trong từng công việc, ai cũng thích và thường ngâm nga mấy câu:
“ Đi hái rau rừng xem địa lý!
   Phơi đồ còn phải xét thiên văn!”
(6) - Hai câu thơ:
                    “ THI SỸ TẢN ĐÀ thành tri kỷ
   Họa thơ, nối vận mấy mươi vần!”
Có xuất xứ hơi dài, phải dẫn giải như vầy:
Sáng ngày mồng 9 tháng 11 năm Mậu Dần (1998)
Hai đệ tử Chân Ngọc và Giác Hảo được cử về Bình Định chở nốt số đồ đạc hơn chục bao thuốc  tới An Thạch để bố trí trong kỳ “cứu trợ vô thời hạn” lần này. Còn lại Giác An và Thành Tấn ở lại đi lấy củi. Vừa vác củi hai đệ tử nhắc nhau học những vần thơ trong bài thơ “ Về Lễ chùa HƯƠNG TÍCH ” mà HÀNH GIẢ viết năm 1985 khi về lĩnh thọ quyền pháp của ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT để cứu đọ người Phương Bắc trong những năm 1984 đên năm 1988. Trước đây có những chỗ chưa thông hiểu kĩ. Giác An cùng Thành Tấn cầu thỉnh HÀNH GIẢ truyền dạy cho ghi chép lại thật chính xác:

Về lễ Chùa Hương-Tích

Con về Hương Tích lễ QUAN-ÂM
ĐẠI TRÍ, ĐẠI TỪ, ĐẠI-BI-TÂM
Chúng sinh muôn khổ mong cứu độ
Hóa giải phiền oan vạn lỗi lầm…

Lỗi lầm trong muôn kiếp u minh
Trôi lăn chìm nổi mấy tử sinh,
Hương thơm tỏa ngát miền Hương Tích
Hương Đạo xua tan khổ hữu tình.

Hữu tình chẳng trói kiếp trầm luân,
Vay trả trả vay vạn duyên trần
Về lễ Hương sơn tiêu sầu khổ,
Qua mùa đông giá đẹp trời xuân

Xuân về cầu lễ ĐỨC QUAN-ÂM
Truyền trao QUYỀN-PHÁP ĐẠI-BI-TÂM
Chúng sinh muôn khổ NGUYỀN-CỨU-ĐỘ
NGỘ-LÝ-CHÂN-NHƯ, tuyệt lỗi lầm.

                        Ngày 19 tháng 02 năm bính dần  (1986)
Bài thơ này làm theo thể thơ đường luật: Thất nôn tứ tuyệt, gối hạc, nối vận ( nghĩa là mỗi khổ thơ có 4 câu, mỗi câu có 7 tiếng. Tiếng cuối của câu thứ nhất là vần “trắc” bắt vần với tiếng cuối của câu thứ ba là vần “trắc” tiếng cuối của câu thứ hai là vần “bằng”  bắt vần với tiếng cuối của câu thứ tư là vần “bằng”). Còn “nối vận”  nghĩa là mượn ngay tiếng cuối của khổ thơ trước làm tiếng đầu của khổ thơ sau, cùng một từ mà diễn đạt ý khác nhau… xin tạm giải thích sơ lược như vậy.)
          Ghi chép xong Giác An và Thành Tấn xin phép đi lên đồi hái rau rừng…
Gần một tiếng đồng hồ sau mỗi đệ tử xách về một giỏ đầy các loại rau ngon và bổ mà thiên nhiên ở đây đã ưu đãi mời chào. Vừa về đến nơi Thành Tấn vui vẻ nói:
-        Thầy dạy chúng con biết được dược tính của nhiều loại rau có nhiều vị thuốc quí lắm!
Giác An thưa:
    -   Bạch Thầy Chúng con hái được nhiều loại rau có dược tính quí như ; “ cây rau má, lá rau muống cuống rau răm”, vùng này gọi là “cây chua lè”  “cây cải trời” mà thầy đã cho chúng con học trong sách “những cây thuốc và vị thuốc Việt- Nam” của Giáo Sư Đỗ Tất Lợi Cây cây “rau Tàu bay” được thầy đặt tên linh dược là “Kháng Nhiễm dược tàu bay” theo phần dược tính trong sách “ Từ điển Cây thuốc Việt Nam” của Giáo Sư Phó TS Võ Văn Chi… Nhiều thứ rau có dược tính quí lắm! Các huynh đệ chúng con ở Hà Nội, Sài Gòn… dễ gì được thưởng thức những món rau tự nhiên quí báu này! Chỉ thiếu món rau sắng của Chùa Hương thôi!...
Nghe nói đên “rau sắng Chùa Hương” bất giác khiến HÀNH-GIẢ nhớ lại một câu chuyệ 35 năm về trước….lưa tuổi 15 “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” cái thủa còn là cậu học sinh lớp 8 (8/10) của trường phổ thông cấp III Đình Bảng ( Quê hương của 8 đời Vua Lý cùng với Quốc Sư VẠN HẠNH )…
          Một buổi sớm mùa Đông mưa phùn gió bấc rét buốt tận xương. Hàng ngày cậu học sinh đó phải đạp xe ngược gió 7 cây số tới lớp học của xóm Núi xã Tam Sơn. Là nơi trường sơ tán tránh máy bay Mĩ bắn phá trong niên học 1964 – 1965. Đang lúc căn bệnh hen suyễn bẩm sinh hành hạ khổ sở như muốn nghẹt thở… thời khóa biểu hôm đó là hai giờ thể dục ngoài trời… “không có môn nào quan trong lắm”…
          Tìm lý luận để bao biện tự cho là có lý như vậy; cậu học sinh đó quyết định “trốn học”… đã đi tới đầu Thị trấn Từ Sơn, cậu liền đạp xe vòng lại nhà người anh kết nghĩa tên là Nguyễn Phụ Lễ (đồng niên với thân Phụ là tuổi Bính Dần năm 1926 ) ở thân Thượng cùng quê là anh cả trong nhóm “Tao đàn ” của cậu. Tất cả đều ưa thích sáng tác và bình luận về các thể loại văn học nghệ thuật như: truện ngắn, truyện dài tiểu thuyết, thi ca, nhạc, kịch, phê bình, tiểu luận…họ thường uống trà Phú Thọ “Cắm tăm” và hút thuốc lá Lạng Sơn thượng hạng…
          Đề tài bình luận rôm rả hôm đó là nói về thân thế sự nghiệp của Thi sĩ TẢN ĐÀ Nguyễn Khắc Hiếu…Hồi tưởng lại tới đó, HÀNH GIẢ nói với các đệ tử:
          - Ta nhớ rằng; “rau sắng” là một đặc sản của vùng Chùa Hương và một kỳ tích về một nhà thơ có đời sống đạm bạc thanh bần rất thích món rau này. Cùng với một nhà sư vô danh ngẫu nhiên trở thành tro âm tri kỷ tại quê hương xứ sở của ông…
Các đệ tử reo lên:
- Cầu xin Thầy truyền dạy cho chúng con…
Nét mặt hiền hòa thân thương cùng tiếng nói dịu dàng của người anh cả nhóm “Tao Đàn”
Năm xưa với khả ăng học vấn tốt nghiệp Đip-nôm thời Pháp và trung cấp âm nhạc. Anh bị hỏng mắt từ năm 18 tuổi sau một kỳ đau mắt nặng…còn in đậm trong tâm trí HÀNH GIẢ như vùa mới hôm nào…
          Hồi đó trên một trang báo của báo “TỪ BI ÂM” thấy xuất hiện 4 câu thơ:


                    “ Muốn ăn rau sắng Chùa Hương,
   Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
  Không đi ta ở lại nhà
  Những là dưa khú cùng là cà thâm.”
Với bút hiệu Tản Đà chưa đầy một tuần lễ sau thi sỹ Tản Đà nhận được bằng đường Bưa điện một bó rau sắng thật to còn tương xanh với một phong bì thư với 4 câu thơ ;
                    « Kính dâng rau sắng Chùa Hương
                       Tiền đò đỡ tốn con đường đỡ xa
                       Không đi xin gửi lại nhà
                       Thay cho dưa khú cùng là cà thâm »
Trên thế gian này mấy ai đã tìm gặp được người tri kỷ tri âm. Đối điện tiếp chuyện với nhau nhiều lần mà vẫn chẳng hiểu ý nhau làm sao có thể nói là tri âm tri kỷ?
Người chưa từng hạnh ngộ chỉ đọc qua mấy vần thơ mà đã thấu hiểu được nỗi lòng mình vừa khởi xướng lên đã ứng họa lại liền tình ý hòa quyện nhau như rồng lượn trong mây. Lời lẽ hiền từ như một lần chắp tay vái chào thep thế võ « đồng tử bái Quán Âm » của môn phái Thiếu lâm Tự. Vừa dũng mãnh hiên ngang vừa kín đáo khép mình khiêm hạ…
Thi sỹ Tản Đà liền ghi lại những vần họa thơ trên và đặng tiếp những câu thơ « nối vận » để tỏ niềm tri âm với người tâm đắc với mình.
                    «  Mấy lời cảm tạ tri âm
                        Đồng bang là ghĩa đồng tâm là tình.
                        Đường xa rau sắng còn xanh
                        Tiện đây xin gửi chút tình nước non. »
Ta có thể ghi lại liên tiếp những đoạn thơ trên như thể xướng họa ứng đối theo lối hát đối hát ví của dân ca quan họ Bắc Ninh :
                    “ Muốn ăn rau sắng Chùa Hương,
   Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
  Không đi ta ở lại nhà
  Những là dưa khú cùng là cà thâm.”
- Vị sư Chùa Hương họa :
                    « Kính dâng rau sắng Chùa Hương
                       Tiền đò đỡ tốn con đường đỡ xa
                       Không đi xin gửi lại nhà
                       Thay cho dưa khú cùng là cà thâm »
-        Thi sỹ Tản Đà nối vận :
                    «  Mấy lời cảm tạ tri âm
                        Đồng bang là ghĩa đồng tâm là tình.
                        Đường xa rau sắng còn xanh
                        Tiện đây xin gửi chút tình nước non. »
…Vào những tháng năm cuối thế kỷ 20 này. Trên khắp non sông đất Việt có mấy ai đọc và nhắc tới một nhà thơ có đời sống đạm bạc thanh cao mà sâu nặng với tình đất nước quê hương. Tác giả « Khối tình con » và « Lời thề non nước » quê miền Sơn Tây có Núi Tản Viên hiên ngang và dòng Sông Đà hùng vĩ ! Ông đã lấy địa danh sông núi quê hương làm bút danh của mình : Thi sỹ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
     Phải chăng lúc này Thi sỹ Tản Đà lại hữu duyên lại có thêm người tri âm tri kỷ là Đệ tử của Đức QUÁN ÂM Chùa Hương Tích trong kỳ đi «  Cứu trợ vô thời hạn » trên miền cao nguyên lần này ?…
          Nghe xong câu chuyện các đệ tử tán thán rằng :
Chúng con rất thích bài kệ « Về Lễ Chùa Hương Tích » đầy đạo vị Thầy đã truyền dạy cho đệ tử chúng con cùng với những vần thơ sâu nặng tình quê hương đất nước của nhà thơ miền Núi Tản Sông Đà. ??.
          Và thường vui thích ngâm nga câu ngững vần thi kệ ấy cho đến thuộc lòng luôn trong ngà hôm đó !...
(7) Hai câu thơ :
                    « Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
  Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa »
a- Ta luận xét câu : « Đêm ngủ: nền lều như trải đá, » với từ nền lều nge có vẻ lạ tai ? Người ta thường nói « nền thất », « Nền Nhà » « nền bếp » « nền trại » từ « nền chòi » chắc cũng ít ai nói tới ? đây lại nói từ « nền lều » thì có thấy lạ tai không ? trong « từ điển tiếng Việt » chẳng biết có từ « nền lều » không nhỉ ?...
          Vì không làm chùa, không dựng thất, chẳng cất nhà mà cũng khộng lập trại, chỉ làm lều với một cách riêng ; không cần dựng cột, chẳng cần ráp kèo, không buooch rui mè theo một kiểu mẫu nào hết mà thiết kế theo lối « kiến trúc đặc biệt » là chỉ việc lấy dây treo lều lên các thân cây :
     « Lều treo bên suối không phên vách »
Để tận hưởng :  « Gió lộng mênh mang chin phương trời”
Suốt một tháng năm sương gối đất ( Phải nói là « tắm sương nằm đá, gối đất » thì mới sát thực hơn) bên bờ suối tìm nơi có được những yếu tố thật lợi lạc cho nhân dân ở đây :
« Trồng thuốc cứu người, hoa cúng PHẬT,
    Lương thực, rau xanh hợp… TU TRÌ,
    Bên bờ suối nước, vừa có đất,
              Rừng cây núi đá tiện đường đi. »
Ta có thể ghi thành một bản gồm những mục như sau :
1- Có đất ( để trồng trọt)
2- Bên bờ suối nước, hay nguồn nước dù nắng hạn lâu cũng có nước đủ sinh hoạt và tưới.
3- có đủ các yếu tố để trồng cây thuốc cứu người.
4-Có đất để trồng đủ các loại hoa thơm để cúng PHẬT
5- Có đất để gieo trồng cây lương thực. Vui ưa việc « tự tác-tự TU » đồng thời được làm công hạnh «  Thượng cúng dường, Hạ bố thí »
6- Có đất để trồng thật nhiều các loại rau có bổ dưỡng cao và nhiều được tính quí báu.
7- Có rừng cây ; để hòa nhập với thiên nhiên và môi trường sinh thái.
8- Có Núi Đá hoặc cũng có tảng đá lớn ứng hiện như « thạch tượng » «  thạch mã »
9- Tiện đường đi nếu không thì cũng không đến nỗi không gồng gánh đồ tới được.
10- Hợp TU TRÌ : gồm 9 yếu tố trên cộng với yếu tố : Thiên thời, địa lợi, nhân hòa
…Trong những đêm đông lãnh lẽo của miền sơn cước cao nguyên . Bao nhiêu người còn say sưa trọng nêm êm mền ấm ! Những con người này là ai ? Họ từ đâu tới ? và tìm cầu điều gì nơi đây ? Họ có điên khùng không mà chịu nằm trên « nền lều » mấp mô gồ ghề « như trải đá » vậy ?
1-Những con người này là ai ?
Họ là những người kính tin giáo Pháp của ĐỨC PHẬT phát nguyện làm công hạnh Tự Giác- Giác Tha, Tự Độ Độ Tha… Họ là những người ở trên các miền quê hương đất Việt đều là con cháu rồng tiên cung chung một huyết thống Lạc Hồng thương yêu nhau trong tình huynh đệ một nhà.
2-Họ từ đâu tới ? và tìm cầu điều gì nơi đây ?
Họ Từ Thủ đô Hà Nội, Từ Sài Gòn « Hòn ngọc Viễn Đông » từ những nơi đầy đủ phương tiện dễ dàng.Họ không phải là những kẻ cầu bơ cù bất thất học, mà đều được đào tạo qua các hệ chính thức của Giáo hội Phật Giáo và Nhà nước. Những đệ tử trung kiên của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN muốn cho muôn chúng sinh ở những miền ơi xa xôi hẻo lánh đều được ân hưởng ánh Hào Quang của TAM BẢO. Họ không hề tiếc công sức mình để làm công hạnh : « cứu khổ chúng sinh là cúng dường PHẬT »
          Họ cũng là những công dân tốt bất cứ ở đâu và khi nào cũng chấp hành đúng các chủ trương chính sách của nhà nước. Sẵn sàng dùng mọi phương tiện, nhân lực, tài vật lực… đi cứu giúp những nơi khó, khổ, nguy làm từ thiện không phải chỉ như những người chỉ nói mà không làm, hoặc chỉ làm với tính chất cầu danh :
                    «  Người khẩu thuyết năng hành nên đắc dụng
                        Ích gì đâu hỡi chàng Két đa ngôn ? »
3-Họ có điên khùng không mà chịu nằm trên « nền lều » mấp mô gồ ghề « như trải đá » vậy ? Không nhũng người này không điên khùng  mà họ luôn « GIÁC NGỘ » tnhr thức làm theo lời dạy của ĐỨC PHẬT «  Tinh Tấn giữa đám người buông lung. Tỉnh Giác giữa đám người ngủ mê. KẺ TRÍ như con Tuấn Mã bỏ lại sau những con ngựa gầy hèn. »
Họ luôn nghiên tầm những diệu phương huyền bí của các bậc tiền bối để cứu giải bệnh tật của nhân sinh. Nơi nào hữu duyên thì họ lưu lại làm công việc «  CỨU TRỢ VÔ THỜI HẠN » Nếu nơi nào vô duyên phước ;
          «  Việc hay không biết quay thành dở
              Điều dở lầm mê trở thành hay ? »
Mà nảy sinh tà kiến tốt bảo xấu hay bày ra dở thì họ cũng sẵn sàng làm.
                    «  Cánh Nhạn tung bay vút chân trời »
b- Câu thơ : « Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa, » từ  « Chỉ tịnh » là nói việc các vị xuất gia TU hành sau giờ ngọ trai ngừng công việc để nghỉ trưa cho yên tĩnh. Người nào không nghỉ có làm việc chi cũng không được ồn ào phát ra tiếng động lớn.
          Những từ « nằm võng không đưa » nghe có vẻ lạ tai ca dao Việt Nam có câu :
                    «  Đố ai nằm võng không đưa ?
                        Đố ai lừa xẻ kéo cưa một mình ?... »
ĐỨC PHẬT dạy các để tử tu hạnh xuất gia là khi đi đứng không được vung chân vung tay « đánh đàng xa » quá cao người ngoài trông vào thấy điệu bộ thô tháo chê cười là « mất oai nghi » !... nên khi nằm võng cũng không thể đong đưa tít mù mà hát « ầu ..ơ » như chị hát ru em !...
(8) – Hai câu :  « HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
     THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
Hai câu thơ này là lấy ý của đoạn thơ trong bài « Bóng Nhạn lưng trời »
« ĐẠI TỶ PHÚ hơn ngàn nhà Tỷ Phú,
   HẠNH THIỂU-DỤC TRÌ-TÚC quí đẹp sao,
   Giàu PHÚC-TUỆ công đức như núi tụ,
             Luôn xả ra , bố thí chẳng vơ vào »
Trước đây khi ở Núi Thị Vải tỉnh Bà rịa Vùng Tàu HÀNH-GIẢ có viết :
«  THIỂU DỤC kham khổ vui đạm bạc
    TRI TÚC thanh bần thấy thanh cao »
(Bài “ Tịnh Thất Non Thị Vải ” – 1992 )
Giờ đây đang ở trong “nền lều như trải đá” bên bờ suối miền cao nguyên trong kỳ đi “Cứu trợ vô thời hạn” lần này HÀNH-GIẢ lại viết:
                       « HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
     THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
“THIỂU DỤC” – ít ham muốn chẳng tranh đua chạy theo những dục vọng tầm thường của thế gian.
“TRI TÚC” – là luôn biết đủ, không sợ thiếu thốn gì?
“HỶ TÚC” – là luôn biết đủ rồi lại thường vui trong mọi lúc mọi nơi.
Hồi ở Núi Thị Vải nói: “THIỂU DỤC” và chịu đựng “kham khổ” trước, rồi thực hành công hạnh  “TRI TÚC” (biết đủ) với nếp sống “thanh bần” mới “thấy” được thanh cao!
Lần này vừa mới tới An Thạch, Hành-Giả  liền nói:
                       « HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
     THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
Bởi “HỶ TÚC” (thường vui biết đủ) cho nên việc sinh hoạt đơn giản, đạm bạc không cho là “phải kham khổ”, “ Phải thanh bần ” mà luôn được “ăn sang” “ sài sang”
“ Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế
   Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
   Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
   Ăn sang” mà chẳng tốn mấy đồng!”
Có nhiều thứ còn sung mãn dư thừa hơn cả các nhà tư sản kếch sù trên thế giới:
                    “ Giàu trăng giàu gió hơn Tỷ phú,”
          Đã “HỶ TÚC” (thường vui biết đủ) rồi  thì việc thực hành công hạnh “THIỂU DỤC” là thấy nhẹ nhàng thanh thản vui ưa đời sống TU HÀNH  đạm bạc thanh bần mà “thích  thanh cao ” ĐỨC PHẬT cũng chẳng bắt “phải thanh cao ” “muốn” “ ưa ” “ vui ” “thích” thì sướng! “Bắt” “Phải” thì “Khổ” “Muốn TU” “Thích TU” thì HAM HỌC vui HÀNH được an lạc sung sướng, dù khó khăn gian khổ dến đâu cũng quyết vượt qua, quyết làm cho được.
          “Bắt TU” “Phải TU” thì không học chẳng thích hành chi hết, thật là khổ sở gặp khó khăn trắc trở liền chán nản thoái lui!...
(9) Câu thơ: “ Giàu trăng giàu gió hơn Tỷ phú,”
Là có ý nhắc tới bài  “Lên non Thị Vải -Nói chuyện gió trăng” có những câu:
“ Trăng Chế Lan Viên tình bát ngát,
   Hỏi Vũ Thị Thường có ghen không ?(3)
   Tiên Ông Lý Bạch say MỘNG NGUYỆT
   Đáy nước mò trăng lạc thủy cung”
Thấy “ Mùa đông miền Bắc đêm lạnh buốt ”
Nên “ Gởi gió đây về ấm áp hơn ”
Thương các chú bộ đội đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương phía tây Tổ quốc , như thương chính than mình phải chịu đựng mười năm trời trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trước đây, mùa hè phải chịu những đợt gió tây ngột ngạt nóng bức:
                    “ Gió Lào tháng nực thiêu bỏng rát
   Gian khổ ai bằng lính Trường Sơn ”
Muốn gởi “ gió biển Vũng Tàu ” về cho vơi bớt phần gian khổ.
Từ nơi “Chùa Tổ Tây Ninh miền nắng cháy” thoắt “đằng vân” bay về thưởng ngoạn “ trăng thanh YÊN TỬ ” rồi liền dụng pháp “khinh công” (như các lạt ma Tây Tạng) lướt gió tới “ Hòn Ngọc Viễn Đông ” ( Tại Chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh, Quận 3 ) để thưởng nguyệt nghênh phong trong bầu không khí nóng  Sài Gòn chờ đón:
“ Gió biển Vũng Tàu qua Long Hải”
Với              “ Gió Động Linh Phong mát ru người”
Tới đâu cũng thấy: “ Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy ”
Để rồi: “ Chia khắp muôn nơi nguyệt vẫn tròn”
Ta hãy đọc liên tiếp cả bốn câu này:
“Chùa Tổ Tây Ninh miền nắng cháy”
Trăng thanh YÊN TỬ  nóng SÀI GÒN”
Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy
 Chia khắp muôn nơi nguyệt vẫn tròn”
Có ai làm phép tính kỳ lạ như vậy không? Một chiếc bánh Trung Thu đem chia cho nhiều người chiếc bánh còn nguyên không?
          “Chuyện Trăng ”, “ Mang Gió” trang trải “ Khắp muôn nơi”? nơi nào cũng “nhận được” vầng trăng rằm sáng đẹp, cùng những ngọn gió mát lành sung mãn… thế mà vẫn còn dư thừa.
                    “ Gió dư tạm gửi vào Động Đá
   Trăng thừa đem cất để dành trăng”
          Trên đời có mấy ai đã được thưởng thức những điều hay của gió vẻ đẹp của trăng như HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG để tâm hòa nhập với:
                    “ Ngọn gió an nhiên không thể trói
   Vầng trăng tự tại chẳng dễ xiềng ”
ĐỨC PHẬT có mỉm cười bảo đệ tử:
“ Nghêu ngao đàm tiếu e tội lỗi
   Gởi gió chia trăng chuyện bong phèng!” (?)
Trên thế gian này có mấy người đã thật sự được thưởng thức gió trăng sung mãn thanh thoát tuyệt diệu hay chưa? Phải chăng chỉ có con của bậc ĐẠI TỶ PHÚ THÍCH CA MÂU NI PHẬT mới có thể được tận hưởng như vậy! cho nên nói rằng:
                    “ Giàu trăng giàu gió hơn tỷ phú”
Cũng không phải là quá đáng: “ Tụng kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO ”
Câu thơ này lấy ý trong đoạn thơ:
                    “ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
  Kệ đẹp vui thanh thoát mãi mai sau
  Giải muôn việc khắp ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
  ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc VĂN-HÀO.”
                                                    ( Bài “Bóng Nhạn lưng trời” )
Tạm lược giải hai câu:
                    “ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
  Kệ đẹp vui thanh thoát mãi mai sau”
Ở trần gian các thể loại văn vần gọi là thơ như thơ ngũ ngôn, thơ lục bát, thơ thất ngôn, thơ bát ngôn.v.v. Trong PHẬT PHÁP gọi là kệ. Những bài kệ, những câu kệ của ĐỨC PHẬT, của chư vị BỒ TÁT, của các bậc THẦY TỔ truyền dạy đạo pháp cho đệ tử ý tứ lời lẽ còn súc tích thâm thúy cao siêu hơn rất nhiều những vần thơ của thế gian.
Có nhiều thể loại kệ như : “Kệ ngũ ngôn” “Kệ cô khởi” , “ Kệ Trùng tụng”, .v.v.
Lấy vài ví dụ:
- “Kệ ngũ ngôn” như khi ĐƯC PHẬT giảng “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN”
Xong muốn cho đệ tử dễ hiểu dễ nhớ ĐƯC PHẬT đã đúc kết gọn lại trong 4 câu kệ:
                    “ Nếu có nam hay nữ
   Gặp được chân MINH SƯ
   TU HÀNH được chính pháp
   Không ai chẳng thành PHẬT ”
ĐƯC PHẬT lại dạy một bài Kệ ngũ ngôn về hạnh Khất Sĩ:
                     “ Nhất bát thiên gia phạn
    Cô than vạn ly du
    Dục cùng sinh tử lộ
    Khất hóa độ xuân thu ”
Tạm dịch nghĩa:
                    “ Hành đạo đi muôn nơi
   Một bát cơm ngàn nhà
   Biển luân hồi sâu thẳm
   Hóa độ khắp gần xa  ”
ĐƯC PHẬT dạy bài Kệ tránh nghiệp sát sinh thì sẽ hóa giải tận gốc chiến tranh theo thể thất ngôn tứ tuyệt:
                    “ Nhất thiết chúng sinh vô nghiệp sát
   Thập phương hà xứ đụng đao binh
   Gia gia xứ xứ đồng TU THIỆN
   Thiên hạ hà sầu bất thái bình ”
Tạm dịch nghĩa:
                     “ Tất cả chúng sinh không giết, sát
    Mười phương không thể có chiến tranh
    Khắp xứ mọi nhà đều TU THIỆN
    Thế giới làm sao chẳng Hòa Bình ”
Hoặc bài Kệ Thị-Tịch của QUỐC SƯ VẠN HẠNH làm theo thể “thất ngôn tứ tuyệt tứ cú tam vận”         “ Thân như điển ảnh hoàn vô
    Mộc thịnh xuân vinh hoa hữu khô
    Nhâm vận thịnh suy vô bố úy
    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
Thượng tọa Thích Mật Thể dịch nghĩa thành thể kệ lục bát:
                    “ Thân như bong chớp chiều tà
    Cỏ xuân tươi tốt thu hoa rụng rời
   Sá chi suy thịnh việc đời
   Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành ”
v.v.. và vv…
          Đọc những vần thơ nói về thế gian phần nhiều là chỉ quẩn quanh rang buộc, hoặc là “thoát ao vào chuôm” hoặc là “ tránh vỏ dưa(trơn trợt) gặp vỏ dừa (dai quấn)” không thể dứt trừ được những phiền não khổ đau …
          Những bài kệ, những câu kệ của ĐỨC PHẬT, của chư vị BỒ TÁT, của các bậc THẦY TỔ chỉ dạy làm lành lánh ác đưa con người tới an lạc giải thoát mãi tột đời vị lai.
                    “ Kệ đẹp vui thanh thoát mãi về sau ”
Lược giải tiếp hai câu:
“Giải muôn việc khắp ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
  ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc VĂN-HÀO.”
Những người viết truyện ngắn truyện dài, tiểu thuyết, phê bình, tiểu luận, biên khảo, …
Tùy theo mức độ nổi tiếng trong nước hay trên thế giới mà được gọi là “nhà văn” “văn sĩ” “ Văn Hào dân tộc ” hay “ Văn hào thế giới ”
          ĐƯC PHẬT là BẬC NHẤT-THIẾT-TRÍ  THẾ-GIAN-GIẢI  đã thông hiểu mọi qui luật vận hành toàn thể vũ trụ. Ngài là GIÁO CHỦ cõi Ta Bà gồm ba ngàn triệu hành tinh như trái đất chúng ta đang ở. Những điều ĐƯC PHẬT nói về vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan và truyền dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn TU-GIẢI-THOÁT.V.V.
Phần ghi chép lại bằng văn xuôi gọi là “Kinh” phần được thu gọn lại theo một thể loại nhất định gọi là “ Kệ ”. Tất cả Giáo Pháp của PHẬT gọi là “Thiên kinh” “ Vạn kệ”
Các Nhà Văn, Thi Sĩ  ở thế gian chỉ viết văn làm thơ nói về những sự việc của thế gian mà thôi!... Nghe đọc mấy câu:
- Nam Mô Thập phương thường trụ PHẬT
- Nam Mô Thập phương thường trụ PHÁP
- Nam Mô Thập phương thường trụ TĂNG
          Chúng ta đã thấy được vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan của Phật giáo.
          Hơn 25 thế kỷ trước đây ĐỨC PHẬT đã dạy các đệ tử khi uống nước phải trì niệm bài kệ:                  Ẩm thủy
                    “ Phật quán nhất bát thủy
   Bát vạn tứ thiên trùng
   Nhược bất trì thử chú
   Như thực chúng sinh nhục”
                       Án! Phạ tất ba-ra ma-ni ta-ha ( 3lần ) »
Tạm dich nghĩa :     Uống Nước
                    «  ĐỨC PHẬT thấy trong một bát nước
                        Có tám vạn bốn ngàn vi trùng
                        Nếu không thọ trì kệ chú này
                        Cũng như ăn thịt các chúng sinh
                       Án! Phạ tất ba-ra ma-ni ta-ha ( 3lần ) »
          Các nhà Bác Học trên thế giới mới phát mih ra kính hiển vi soi thấy có vi trùng được mấy trăm năm gần đây. Đức PHẬT đã biết rõ tất cả qui luật vận hành của vũ trụ, cùng các hiện tượng về nhật thực nguyện thực : trong Kinh Đại Bát Niết Bàn ĐỨC PHẬT có dạy Ca Diếp Bồ Tát:
               «  Nầy Thiện-nam-tử ! Như xứ nầy thấy mặt trăng tròn, phương khác thấy mặt trăng khuyết, phương nầy thấy mặt trăng khuyết, phương khác thấy mặt trăng tròn. Người Diêm-Phù-Đề nều thấy bắt đầu có mặt trăng nói là ngày mùng một, tưởng là đầu tháng. Lúc thấy trăng tròn, nói là ngày rằm. Nhưng mặt trăng thiệt không có khuyết với tròn, vì bị che chướng mà có thêm bớt.”
(Xem Kinh Đại Bát Niết Bàn phẩm “ nguyệt dụ ”)
Vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan của thiên chúa giáo không đúng đắn với sự thật họ muốn bắt quả đất phải vuông và phải đứng yên một chỗ không được xoay chuyển.
                    “ Ai ép buộc đẽo vuông thành Trái đất
   Ai bắt quả địa cầu phải đứng yên
   Ai lừa dụ, phỉnh phờ che sự thật
   Ai dối mình gạt người lắm kẻ tin”
( Trích trong bài “ Đắc nhân tâm, thất nhân tâm”)
Và dung quyền lực giết chết một cách tàn bạo nhà Vật lý học GA-LI-LÊ người đã tìm ra quĩ đạo vận chuyển của trái đất xung quanh mặt trời. Đồng thời tự quay theo một quĩ đạo riêng của chính nó là một chứng minh hùng hồn những điều về vũ trụ quan mà ĐỨC PHẬT đã giảng trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn” hai ngàn năm trước đó.
          Với kiến thức khoa học ngày nay không thể che đậy bưng bít những sự thật quá hiển nhiên được nữa, cho nên thời gian gần đây Giáo-hội Thiên-Chúa-giáo  đã phải xin lỗi Thế giới về sự sai lầm trong việc giết chết, oan uống nhà Vật lý học Galile
          Bàn luận những điều ĐỨC PHẬT đã giảng dạy trong KINH KỆ chúng ta có thể nói gọn trong bốn câu:
ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
  Kệ đẹp vui thanh thoát mãi mai sau
  Giải muôn việc khắp ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
  ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc VĂN-HÀO.”
Khi nghiên cứu KINH ta gọi là “Đọc kinh” hay “Tung Kinh” khi thưởng thức thi kệ gọi “Ngâm thơ” “ngâm Kệ ” hay “tán kệ” thường nghe nói:
          “ Tung ba tháng tán ba năm”
Để rồi càng gói gọn lại trong câu;
                    “ Tung kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO ”
Đoạn thơ bốn câu:
“GIA LAI, AN-KHÊ thôn An Thạch,
  Lễ rằm mấy người tới cúng dường,
  Sơn thần thành kính dâng cúng PHẬT
  Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
Nguyên xuất xứ lúc ban đầu của khổ thơ này làm theo thể thơ “Thất ngôn tứ tuyệt, gối hạc” như vầy:
                    “ Bồ Tát kỳ đầu miền An Thạch
   Thiện nam tín nữ tới cúng dường
   Sơn Thần thành kính dâng cúng PHẬT
   Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương ”
Đức PHẬT dạy các đệ tử xuất gia TU HÀNH dù ở đâu mỗi tháng cũng thọ trì đều đặn 2 kỳ tụng giới vào ngày rằm giữa tháng và ngày cuối tháng (phép tụng giới gọi là Bồ Tát)
                    “ Một tháng hai kỳ thường BỒ TÁT
   GIỚI LUẬT không thông lấy gì TU ?”
Trong giới kinh ĐỨC PHẬT có dạy:
- Khi làm lễ BỒ TÁT người nào đã thọ giới mới được thính (nghe) giới. Ai thọ giới trước ngồi trước, ai thọ giới sau ngồi sau. Người nào chưa thọ giới không được thính (nghe) phần giới pháp mình chưa thọ. Cũng như người học bậc sơ cấp chưa được nghe giảng của bậc trung cấp hoặc cao cấp, khi không hiểu được lại sinh nghi ngờ nảy sinh tà kiến, đàm tiếu lung tung mà mang tội.
          Nhớ lại đợt đi “CỨU TRỢ ” tại vùng kinh tế mới xã Nam dong huyện Cư dút tỉnh Đắc Lắc tháng ba tháng tư năm Mậu Dần (1998). Nhiều người chưa thọ pháp Tam qui ngũ giới là bước đầu tiên của người Phật Tử tại gia. Ngày rằm tháng ba khi làm lễ BỒ TÁT có hai người đã thọ giới BỒ TÁT tại gia được ngồi lại thính giới, những người chưa tho giới đều được mời ra ngoài. Trong số này có một người tên là Trần Thị Xiên quê ở Hà Tĩnh trưa hôm đó đã xin cúng cơm cho vong linh của người con trai mới chết trước đó ba tuần lễ (cúng ba thất). Bởi vì không biết nghi thức cúng của MẬT TÔNG là hành trì theo pháp “ TAM MẬT TƯƠNG HƯNG ” gồm có:
1-    Thân Hành Phật Hạnh ( Tay kiết ấn như ĐỨC PHẬT kiết ấn )
2-    Khẩu Niệm Phật Ngôn ( Miệng tụng thần chú của PHẬT )
3-    Ý Niệm Phật Ý  ( Tâm ý quán tưởng PHẬT cứu độ chúng sinh)
Thị Kiên không hiểu các pháp MẬT TÔNG của PHẬT lại không chịu thỉnh  hỏi để được nghe giảng giải cho thông hiểu lại nảy sinh tà kiến cho là “Đồng Bóng” liền viết đơn tố cáo gửi lên công an và ban đại diện PHẬT giáo của huyện Cư jút.  Vì không có chư tăng làm việc lại để cho hai người thế gian là TRÍ và Dũng tới hạch sách đòi xét giấy tờ của chư Tăng và hủy bang mạt sát ngôi TĂNG BẢO còn thậm tệ hơn vô thần và ngoại đạo! (phải chăng “điếc không nghe sung nên không sợ” không hiểu luật nhân quả, không biết việc phạm tội nảy sinh tà kiến và tội hủy bang TAM BẢO phải chịu quả báo khổ mãi đọa lạc trong tam đồ như thế nào?...)
          Làm lễ BỒ TÁT trong rừng An Thạch kỳ này…nếu không phương tiện để cho họ được thính (nghe) pháp thì họ lại nổi “Bồ đề gai” lên như hồi ở vùng kinh tế mới Nam Dông huyện Cư jút tỉnh Đắc Lắc….
…Khi tung giới BỒ TÁT xong phần CÚNG NGỌ có tụng thần chú “ diệu sắc mani PHỔ CÚNG DƯỜNG” Tiếng Phạn rồi thọ trai…
          Buổi sang ngày hôm sau nghe chú Bảy Tài Trưởng thôn An Thạch là người sốt sắng nhất trong việc làm các thủ tục hành chính cho hợp lệ và chú Năm Sương ở trong thôn ra thuật lại rằng:
          - Chú Ba Tèo nói rằng: “ Ông Thầy này không phải người TU ĐẠO PHẬT tụng cái chi lạ lắm nghe chẳng giống ai cả! những cuốn KINH CỦA PHẬT ở Chùa tôi đã tụng hết cả rồi không có kinh nào như Ông Thầy này Tụng!... ”
          Thương Ôi! Một người chưa được thọ pháp Tam Qui Ngũ Giới  dám mở miệng xưng hô là đã tụng hết cả tám van bốn ngàn KINH PHÁP của PHẬT rồi ? lại lớn lối lên giọng khinh chê một vị TĂNG thọ trì TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI của ĐỨC PHẬT hai chục năm trời! phải chăng là:
                    “ Kẻ mù mắt lại khinh người sang mắt
   Người mắt tinh thật xót kẻ đui mù”
Và                “ Xót người không biết không cầu học
                       Chưa thông không chịu học cho thông
                       Nảy sinh tà kiến … bày moi móc!
                       Tội xây thành Núi Phước đổ song!...”
Càng thấy tội nghiệp xót xa:
                    “ Việc hay không biết quay thành dở
   Điều dở lầm mê trở thành hay?!
   Hủy báng TAM BẢO Không biết sợ
   Nghiệp chướng chẳng vơi kết thêm dày ”
Để nói cho sát với thực tế những sự việc của đợt đi “ CỨU TRỢ VÔ THỜI HẠN” lần này, cho nên HÀNH GIẢ phải sửa lại đoạn thơ trên  từ câu:
   “Thiện nam tín nữ tới cúng dường”
Thành câu “ Rằm lễ đầu mấy người tới cúng dường”
          Kẻ được thấy nghe hành trì kinh pháp của PHẬT mà không hiểu không tin lại còn sinh lòng hủy bang TAM BẢO thì làm sao còn có thể gọi là “Thiện-Nam” thì làm sao còn có thể gọi là “Tín-Nữ” được? Ví như ở thế gian đã phạm tội làm gián điệp chống phá nhà nước tất nhiên phải bị pháp luật nhà nước nghiêm trị trong tội.
Kẻ đã phạm tội hủy bang TAM BẢO làm sao có thể trở thành một Phật Tử trung kiên hộ trì TAM BẢO được? Có chăng nó sẽ biến thành một loại “ Sư Tử Trùng” để “Thực sư tử nhục” cắn chết Sư Tử Vương Phật Pháp
                    “ Sư tử trùng cắn nát than sư tử
   Không phải cọp beo dữ phá ở bên ngoài!”
Làm sao những “sư tử trùng” đó có thể ân hưởng được sự gia hộ thậm thâm vi diệu của TAM BẢO được.
          Bởi vậy sau ngày rằm HÀNH-GIẢ phải sửa lại khổ thơ từ thể “ thất ngôn tứ tuyệt gối hạc ” thành thể “ bát ngôn tứ tuyệt gối hạc” là:
“GIA LAI, AN-KHÊ TÚ AN, AN THẠCH
  Rằm lễ đầu mấy người tới cúng dường,
  Chư Sơn-Thần thành kính dâng cúng PHẬT
  Những Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
Mấy ngày sau khi viết chú thích, đọc đi đọc lại nhiều lần, thấy mỗi câu tám chữ có vẻ hơi rườm rà nên HÀNH-GIẢ rút bớt mỗi câu một chữ cho gọn lại là:
“GIA LAI, AN-KHÊ… thôn An Thạch,
  Lễ rằm mấy người tới cúng dường,
  Sơn thần thành kính dâng cúng PHẬT
  Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
(79a) Danh từ “ Kẻ Tà Kiến” để chỉ cho người hiểu lệch lạc, sai lầm về một vấn đề nào đó trái ngược với “người chính kiến” hiểu biết nhìn nhận và đánh giá sự việc một cách khách quan, chân thật và đúng đắn. Ở bất cứ môi trường nào vấn đề nào cũng có hai mặt: chính diện và phản diện, chính kiến và tà kiến PHẬT và Ma;
                    “ PHẬT luôn cứu độ, Ma cản phá
   Nơi ào có PHẬT cũng có Ma ”
Ở đây chỉ xin nói về việc có một số người nhìn nhận , hiểu và đánh giá lệnh lạc sai lầm rồi nảy sinh Tà kiến phủ nhận những điều tốt đẹp cao siêu của PHẬT PHÁP! Chúng ta hãy nghe Luật Sư DIỄN BỒI giảng về phần “Tà kiến” của giới thứ 10 trong “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ” do Hòa Thượng Luật Sư Thích-Trí-Minh dịch từ Hán văn ra Việt văn:
Tam Bảo tức là chiếc đò rộng lớn đưa người ra khỏi nẻo tà:  
- Là yếu môn đi vào Phật đạo.  
- Là cảnh thù thắng cho người sơ phát tâm.  
- Là chỗ cùng tột của tất cả những ai muốn nương về.  
- Là chiếc thuyền từ đưa chúng sanh qua bể khổ.  
- Là ngọn minh đăng soi sáng trong đêm trường hắc ám.  
- Là trận mưa to lúc ngôi nhà lớn đang hỏa hoạn.  
Vì thế, tất cả mọi phương diện, tất cả chúng sanh đều phải nhất tâm thừa sự, kính thuận và thân cận cúng dường, mong cho ngôi Tam Bảo trong thế gian được mãi mãi hưng thạnh, làm chỗ nương nhờ an ổn cho chúng sanh. Nếu đã không làm được như vậy, lại còn cực lực hủy báng Tam Bảo, là tự mình chuốc lấy tai họa thâm sâu và làm hại cho tất cả mọi người, làm đoạn tuyệt tất cả hạt giống trong ngôi Tam Bảo. Tội ác này lớn biết dường nào, vì vậy mà kết thành căn bổn trọng tội!  
Ðề mục giới này gọi là hủy báng, chính là sự chống trái, tự mình không minh bạch chút đạo lý nào, không có tri kiến chính xác, rồi đối với Tam Bảo vọng sanh chê bai, bàn luận hoàn toàn không đúng sự thật, nên gọi là hủy báng.  
Tam Bảo là phước điền mầu mỡ, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh, đáng lẽ không được hủy báng. Nhưng chúng sanh sở dĩ hủy báng Tam Bảo là do tà kiến xúi giục.  
Tà kiến là sự sai lầm của tư tưởng. Khi một người có tư tưởng sai lầm thì bất cứ điều gì họ cũng cực lực bài bác, không thừa nhận. Phật pháp nhận định rằng những tội lỗi do tư tưởng sai lầm sản sinh, so với tất cả những tội khác thì nặng hơn hết. Tà kiến nói ra thì rất nhiều, nhưng chư cổ đức quy nạp lại một cách đại khái gồm có bốn loại sau đây:  
1. Thượng phẩm tà kiến: loại tà kiến này phủ nhận mọi hành vi đạo đức. Căn bản là bài bác luật nhân quả của thiện ác nghiệp. Không thừa nhận bất cứ thuyết thiện nhân, thiện quả hay ác nhân, ác quả nào, như hạng nhất-xiển-đề thuộc loại tà kiến thượng phẩm này.  
(Nhất-xiển-đề, Trung Hoa dịch là Bất Tín. Nghĩa là không tin Phật pháp. Kinh Niết Bàn quyển năm nói: “Những người không có tín tâm với Tam Bảo gọi là nhất-xiển-đề”).  
2. Trung phẩm tà kiến: thứ tà kiến này không thừa nhận Tam Bảo có công đức thù thắng hơn ngoại đạo, thậm chí còn nói Tam Bảo không bằng ngoại đạo là khác.  
Nếu loại chấp trước sai lầm này uẩn súc trong nội tâm đã thành thục rồi hủy báng Tam Bảo thì phạm căn bổn trọng tội, luôn cả giới thể cũng bị mất. Nếu nội tâm đã thừa nhận Tam Bảo là thù thắng hơn ngoại đạo, nhưng chỉ ở đầu lưỡi rao nói Tam Bảo không bằng ngoại đạo. Vì chưa bỏ Chánh Ðế theo hẳn Tà Ðạo, dù là phạm căn bổn trọng tội, nhưng giới thể không hoàn toàn bị mất. Nhưng nếu một lần nói Tam Bảo không bằng ngoại đạo thì kết trọng tội một lần. Nói nhiều lần thì kết trọng tội nhiều lần. Vì thế, tội hủy báng Tam Bảo này không nên tùy tiện nói càn.  
3. Hạ phẩm tà kiến: các Phật tử thọ Bồ Tát giới, tu học pháp Ðại Thừa, phải thú hướng đến Ðại Thừa, là mục đích duy nhất của mình. Về sau nếu bỗng nhiên biến cải ý niệm của mình, buông bỏ bổn nghiệp Ðại Thừa cần phải học tập của mình, để chuyên tâm nhứt ý học theo pháp Tiểu Thừa.  
Nếu thứ pháp chấp trước này đã thành tựu trong nội tâm thì phạm căn bổn trọng tội, và mất hẳn giới thể của Bồ Tát.  
Nếu thứ chấp trước này chưa thành tựu trong nội tâm, thì chỉ thuộc về giới có tâm trái bỏ Ðại Thừa, trong phần các giới khinh.  
4. Tạp loại tà kiến (tà kiến tạp nhạp, gặp thứ nào cũng tin): Chia làm nhiều trường hợp.  
* Chấp Ðại Thừa hủy Tiểu Thừa: cho rằng Bồ Tát học pháp Ðại Thừa, chỉ cần thành thật học pháp Ðại Thừa là đủ. Với giáo pháp tương ứng Thanh Văn thừa, Bồ Tát không cần phải học tập, như trong Du Già Bồ Tát Giới Bổn nói: “Bồ Tát cần chi học tập, cần gì phải nghe theo và bẩm thọ, hành trì, tinh tấn tu học giáo pháp tương ứng Thanh Văn thừa?” Như thế sẽ phạm tội khinh cấu “nhiễm ô khởi”.  
(Lưu ý: Danh từ “nhiễm ô khởi” có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây có nghĩa là một thứ tội từ phiền não phát sanh).   
Phải biết Phật pháp bên Tiểu Thừa dù nói là không được rốt ráo, nhưng đây là phần cơ bản rốt ráo của Phật pháp xuất thế. Vả lại, chư Phật trong ba đời xuất hiện ở thế gian, giáo hóa chúng sanh, không vị Phật nào chẳng tuyên thuyết giáo pháp Tam Thừa.  
Cho nên Bồ Tát đã phát Bồ Ðề tâm, đối với pháp Ðại Thừa cần phải tu học là lẽ đương nhiên, nhưng với pháp Thanh Văn thừa cũng cần phải học tập, để làm phương tiện độ sanh cho chính mình. Không được nói: “Tôi đây là người Ðại Thừa, không cần học pháp Tiểu Thừa”. Nhưng nếu chỉ chấp chặt một bên, theo pháp Tiểu Thừa không ra khỏi, cố nhiên cũng không đúng; nhưng bài bác pháp Tiểu Thừa không chịu học tập, cũng là điều tuyệt đối sai lầm.  
Lại có người khuynh hướng thiên về sự hủy báng một bộ kinh nào đó. Như đối với các kinh điển Ðại Thừa, bộ nào hợp với tư tưởng của mình thì thừa nhận là Phật nói. Nếu bộ nào không hợp thì cho là không phải Phật nói, và cho rằng bộ kinh ấy không phải của Phật giáo, mà thuộc về tà thuyết của ngoại đạo. Chấp như vậy sẽ phạm tội khinh cấu.  
Trong giới kinh nói: “Nếu Bồ Tát khi nghe nghĩa lý thậm thâm, chân thật của Bồ Tát pháp tạng cùng với vô lượng thần thông diệu dụng của chư Phật, Bồ Tát, mà bài báng, không tiếp thọ, nói là không có lợi ích cho chúng sanh, không phải pháp của Như Lai nói, không thể đem sự lợi ích an lạc lại cho chúng sanh thì vị Bồ Tát này phạm tội nhiễm ô khởi”.  
Lại nữa, nếu có kẻ tín tâm không được thuần khiết, người ấy đối với oai đức của Tam Bảo, với nghĩa lý của pháp Ðại Thừa, luật nhân quả thiện ác, tuy có tâm thâm tín không đối nghịch, nhận chân những lời trong kinh nói đều đúng. Nhưng đồng thời cũng cho rằng ngoại đạo, quỷ thần cũng có oai lực của quý vị ấy, nên bảo nhau tín phụng theo ngoại đạo hoặc quỷ thần. Thậm chí còn dùng phù chú, điệp sớ cúng tâu lên cho quỷ thần biết rõ. Chẳng những tự mình tin hiểu, thực hành như vậy, lại còn khuyến hóa mọi người cũng tin hiểu và thực hành như vậy.  
Việc này trong thời buổi hiện tại có thể nói là rất nhiều. Y theo giới Bồ Tát mà nói, lối tin không thuần khiết này không thể chấp nhận và sẽ phạm tội khinh cấu.  
Chúng ta nên biết, đối với tín ngưỡng, điều tối yếu là không được phức tạp. Nếu bất cứ điều gì cũng cho là đúng, tin một cách tạp nhạp, không phân biệt Phật, quỷ thần hoặc Bồ Tát, là trái với chánh tín của người Phật tử, thuộc về tri kiến điên đảo, không thể gọi là người Phật tử chánh tín.  

( Trích 10. GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO KINH PHẠM VÕNG)

(79b) Hai câu:   “ Kẻ tà kiến (79a ), biến thành “Trung Sư-tử”; ” (79b)
                            Ai nhập bầy với lũ phá đạo kia? ”
Danh từ “ Trùng Sư-tử ” hay “ Sư- tử trùng”
hoặc có chỗ nói  “ Sư-tử trùng thực Sư-tử nhục ” là lấy ý trong “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI” phần giới khinh thứ 48 ĐỨC PHẬT có dạy:
48- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP                                                                                                  
Nếu Phật tử đã do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng và tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc vương và các quan, làm các việc gông trói các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, người thọ giới Bồ Tát như cách của ngục tù và binh nô, như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử chứ chẳng phải trùng ở ngoài vào ăn được.  Cũng thế, các Phật tử tự hủy phá Phật pháp, chẳng phải ngoại đạo hay thiên ma phá được. Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới luật như ấp yêu con một, như kính thờ Cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật tử, khi nghe ngoại đạo hoặc người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật, chẳng khác nào như ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả ngàn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình.  Thà tự cam chịu vào địa ngục cả trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp của Phật, do bọn người ác xúc phạm, huống gì không có lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy phá.  Nếu cố tâm phá giới pháp của Phật, thì Phật tử này phạm tội khinh cấu.
(80) Hai câu:
                    “ Chẳng phân tà chính không lành dữ ?
                      Ai biết ác Ma quyết xa lìa ?"
Hai câu này lấy trong “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” NGÀI ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT  biết thời mạt pháp sẽ có nhiều loại Ma quỷ giả danh là đẹ tử của PHẬT (như loài lang sói đội lốt cừu non để hãm hại hết cả đàn cừu, cũng như loài gián điệp điêu luyện leo cao luồn sâu vào hàng ngũ cán bộ cao cấp để phá hoại. Có cần phải truy tìm và nghiêm trị càng sớm càng đỡ gây tổn thất cho nhà nước và nhân dân hay không ?). Những loại tà ma, quỉ quái đó giả danh xưng là đệ tử của PHẬT PHÁP. Chúng không thực hành những điều ĐỨC PHẬT dạy trong giáo Pháp của Ngài mà làm rất nhiều điều sai trái với PHẬT PHÁP. Làm cho chúng sinh không thấy được những điều thậm thâm vi diệu của PHẬT PHÁP. Trái lại thấy toàn những việc tệ hại hơn cả người thế tục làm cho người đời chán ghét trở lại khinh chê xa lánh… không gặp được chính pháp của PHẬT. Không hưởng được những tinh hoa của Phật Pháp, mãi mãi phải trầm luân đọa lạc trong biển khổ sinh tử luân hồi.
          Thấy biết trước tất cả những ma tà quỉ quái đó sẽ giả danh là đệ tử của PHẬT để phá hoại PHẬT PHÁP cho nên ngài ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT đã duyên khởi thỉnh hỏi ĐỨC PHẬT những điều thiết yếu để phân biệt rõ tà chính và TU HÀNH khỏi bị lầm lạc trong “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” mục số 23 và 24 có dạy :
           23- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là lục sư ngoại đạo?
            Thế Tôn nói: Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất. Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, là ngoại đạo thứ hai. Lại có những người trên thời không có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba. Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư. Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm. Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền, chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
24-Sáu hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.
            Nên Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà là đồng với ma Ba tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.
Việc TU HÀNH đúng chính pháp của ĐỨC PHẬT vừa tự độ mình được an lạc GIẢI THOÁT mọi khổ đau phiền não, vừa phát tâm là công hạnh độ tha cứu độ chúng sinh . Ở thời mạt pháp này vô cùng khó khăn, nếu không được BẬC THẦY CHÂN CHÍNH truyền dạy cho học thông bộ “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” và không thường xuyên cầu thỉnh BẬC THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH của mình chỉ dạy những điều PHÁP YẾU để TU học thì khó có thể tránh khỏi mọi sự ám nhập, dẫn dắt và lôi cuốn để biến thành quyến thuộc của các loại tà ma trở lại làm tổn hại vô lượng chúng sinh. Muốn biết rõ sự biến thiên của các loài tà ma đó như thế nào chúng ta hãy nghiên cứu thật kỹ:
            “KINH NHẤT THIẾT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG”         
Nếu có chúng sanh khi biên chép đọc tụng kinh điển này có bốn thứ ác ma nó làm não loạn. Những gì là bốn thứ:
1.      Là sanh lòng biếng nhác.
2.      Là khởi tâm không tin.
3.      Là đối chỗ của pháp sư không sanh tôn trọng.
4.      Là tâm không thường định.
Người này liền biết đó là ma sự.
Lại nữa có bốn nghiệp ác ma. Gì là bốn:
1.      Là xa lìa thiện tri thức.
2.      Là không như lý tác ý.
(Khởi tâm không hợp chân lý)
3.      Là không hiểu rõ văn tự.
4.      Là chỉ thấy hiện tại, nói không vị lai, tạo các ác nghiệp, lòng không lo sợ, nói không nhân quả.
Ta nói kẻ đó còn làm những điều phi pháp, ưa quản tục vụ, tham nhiễm ràng buộc, chúng sanh như thế sẽ đọa địa ngục, trải vô lượng kiếp, chịu đại khổ não.
Lại nữa có bốn thứ ma. Gì là bốn:
1.      Là tham đắm tiền tài vật chất.
2.      Là gần gũi bạn ác.
3.      Là chướng ngại pháp sư.
4.      Là đối pháp sư thuyết pháp hay tìm vạch lỗi lầm.
Những chúng sanh ấy do nghiệp ác này cho nên sẽ chịu nghèo cùng khốn khổ. Không thấy bạnh lành, xa lìa tôn sư, khởi tướng tà kiến, nói không nhân quả. Phải đọa địa ngục chịu nhiều kịch khổ.
(“KINH NHẤT THIẾT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNGBộ Mật Tông Trang 749-750)
Nghiên cứu “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” chúng ta đã được ĐỨC PHẬT trang bị cho một “KÍNH NHÃN QUANG CHIẾU YÊU”  để thấy rõ chân tướng của ma ba tuần biến thành “Lục sư ngoại đạo ” và “ Ngũ Ấm ma”  là năm loài ma ham đắm ngũ dục; Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy( ngủ, nghỉ, chơi bời) rồi trong KINH NHẤT THIẾT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG”  ĐỨC PHẬT chỉ cho chúng ta biết rõ 12 loài ác ma khác nữa. Mỗi người tự soi xét xem mình có“nhập bầy”với loại nào trong các loại ác ma đó không?
(91) Hai câu:
                    “ Ai chưa đắc QUYẾT HỌC HÀNH CHỨNG ĐẮC
   Ai chưa thông QUYẾT RÈN LUYỆN TINH THÔNG”
Hai câu này lấy ý trong “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” lời ĐỨC PHẬT dạy:
  35 - Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Ta cũng từ chỗ phát tâm trai giới trong sạch mà đặng, ta cũng từ chỗ chân thật mãi mãi không lui sụt mà đặng. Ta cũng từ chỗ lập nguyện rộng lớn, nguyện ra khỏi thế gian mà đặng, ta cũng từ chỗ lập chí bình đẳng chẳng luận bà con hay là người dưng mà đặng. Ta cũng từ chỗ hạ tâm thấp hèn cầu thầy học hỏi mà đặng, ta cũng từ chỗ từ bi nhẫn nhục mà đặng, ta cũng từ chỗ tinh tấn giải thoát mà đặng. Ta cũng từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học cho đến ta cũng từ chỗ học hết thảy các giống trí huệ mà đặng.
(92) Hai câu:
                    “ Ai chậm tối ngây khờ như BÀN ĐẶC
   THẬT QUYẾT TU đạo quả cũng thành công”!
Hai câu này nói về tấm gương sang ngời đời đời kính phục; của một người từ nhỏ bản tính quá ư chậm tối ngây khờ “ngu lâu khó đào tạo” mà quyết tâm chăm chú THẬT HỌC THẬT TU đã thành công rực rỡ . Chúng ta hãy đọc mấy trang sách “ GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY ” này sẽ hiểu rõ.
Bạn sẽ “có được cái nghiệp đẹp đẽ,” điều này không những ám chỉ cái đẹp vật lý mà còn ám chỉ đạo đức trong sạch. Đạo đức trong sach không làm cho thân thể đẹp, nhưng đối với chư Phật và Bồ tát thì đấy là cái gì đẹp nhất. Đức Tsongkapa vĩ đại có nói
Những người biết phân biệt pháp mặc áo khiêm cung
Đây là đạo đức, không phải hàng đẹp
Biện tài, trang hoàng cổ họ, không phải chuỗi anh lạc
Bậc thầy là ngọc quý, không phải ngọc nào khác.
“Được sanh lên thượng giới” phải hiểu là các cõi Phật.
Bậc thánh Chùdapantaka (Chu lợi bàn đà dà) chứng quả A la hán nhờ lau nhà. Tôi sẽ kể cho các bạn câu chuyện về ngài.
Trong thành Xá vệ ngày xưa có một người bà la môn sanh đứa con nào cũng chết khi vừa mới chào đời. Có một bà già lân cận bảo: “Lúc nào có đứa nữa, thì hãy gọi tôi.” Sau đó người bà la môn sinh một bé trai, ông liền gọi bà già. Bà bảo ông ta tắm rửa cho đứa bé, quàng cho nó một tấm vải trắng và nhét bơ đầy miệng rồi giao nó cho một cô gái săn sóc. Bà lại bảo người bà la môn nhờ cô gái ẳm thằng bé đến nơi ngã tư đại lộ và phải kính lễ khi gặp một vị sa môn bà la môn nào đó đi qua mà nói: “Hài nhi này xin đảnh lễ dưới chân thánh giả.” Nếu đứa trẻ sống được thì hãy chờ mặt trời lặn hãy đem nó về; nếu nó chết thì hãy quăng bỏ nó.
Cô gái là kẻ có lương tâm, cô ngồi suốt ngày giữa ngã tư đại lộ. Đầu tiên có vài du sĩ ngoại đạo đi qua, cô gái làm theo mệnh lệnh bà già. Những du sĩ nói: “Mong cho hài nhi này sống, trường thọ, và ước nguyện của cha mẹ nó được thành.”
Sau đó vài vị tỷ kheo đi qua, họ cũng chú tụng tương tự như trên. Cô gái bèn đem đứa bé đến Kỳ Viên tịnh xá. Nàng gặp Đức Phật đang đi khất thực, và Phật cũng làm như mấy người kia, nhưng nói thêm rằng: “Mong cho cha mẹ của nó thành tựu những ước nguyện đúng pháp.”
Khi mặt trời lặn, cô gái thấy đứa bé còn sống nên đem về nhà. Nó được đặt tên là Mahapanthaka (Đại Lộ) vì đã được đưa ra giữa đường cái. Đại lộ lớn lên thành một học giả tinh thông kinh điển Vệ Đà và dạy cho một trăm đứa trẻ bà la môn.
Người cha có thêm một đứa con trai khác, ông cũng gọi bà già và cũng được khuyên như lần trước. Nhưng lần này họ lại giao đứa bé cho một cô gái làm biếng; cô chỉ bế nó ra đứng tại một đường hẽm. Không có một vị sa môn bà la môn nào đi qua. Đức Phật biết rằng biết rằng sẽ không bậc thánh nào sử dụng con đường ấy, nên Ngài đích thân đi đến, vì Ngài vốn luôn luôn đêm ngày săn sóc cho các hữu tình. Cô gái đảnh lễ, và Ngài nói lời ban phước như lần trước. Nàng mang hài nhi về nhà khi thấy nó còn sống. Nó được đặt tên là Chùdapanthaka (Đường Nhỏ). Khi lớn lên nó cố học đạo. Nó tập đọc những tiếng như siddham, nhưng nó chỉ đọc đường âm sid thì nó quên âm dham, mà khi nó nhớ âm dham thì nó quên sid. Thầy của Đường Nhỏ bảo người cha rằng: “Tôi còn phải dạy nhiều trẻ khác. Tôi không thể dạy cho nó.”
Đường nhỏ được gửi đến học tụng kinh Vệ Đà với một người chuyên về kinh điển ấy. Trước tiên thầy dạy nó hai âm om bhu. Nó đọc được âm om thì quên âm bhu và ngược lại. Thầy nó phải tuyệt vọng về nó. Ông bảo người cha: “Thằng Đại Lộ con lớn của ông chỉ cần dạy một chút xíu là biết liền, còn thằng Đường Nhỏ này thì tôi chịu. Tôi không thể dạy nó; tôi còn nhiều trẻ con phải dạy.”
Bởi vậy mà cái tên Đường Nhỏ đã hóa thành nghĩa bóng là u mê đần độn, ngu nhất trong những người ngu, nhỏ nhất trong những cái nhỏ.
Về sau khi cha mẹ chết, Đại Lộ quy y theo Phật và đi tu thành tỷ kheo, thành một bậc hiền trí, chứng quả A lan hán. Đường Nhỏ tiêu hết gia tài xong cũng đi theo anh. Đại Lộ quán sát xem em mình có chút duyên gì với Phật pháp không, và thấy rằng chính mình có thể giúp em khai phát tiềm năng Phật tính, bởi thế ông cho Đường Nhỏ xuất gia thụ giới làm chú tiểu.
Trong ba tháng kế tiếp. Đường Nhỏ bỏ hết thì giờ chỉ để học một bài kệ.
Thanh tịnh thân, khẩu, ý.
Lìa dục nhiễm thế gian.
Thường nhớ nghĩ chuyên cần.
Tránh ác pháp đau khổ.
Bọn giữ bò trong khu vực nghe lỏm bài kệ ấy cũng đã thuộc lòng, thế mà đường nhỏ không thể nào thuộc nổi.
Bậc thánh Đại Lộ suy nghĩ: “Làm sao điều phục Đường Nhỏ? Nên ca tụng nó hay làm nhục?” Ngài thấy rằng nhục mạ Đường Nhỏ là cách điều phục hiệu nghiệm nhất, bởi thế ngài nhiếc mắng Đường Nhỏ, túm lấy cổ áo của y mà lôi ra khỏi cổng tinh xá Kỳ Viên.
Đại Lộ nói: “Người là kẻ ngu đần nhất trong những kẻ ngu đần. Cho ngươi xuất gia làm gì? Đứng đó.”
Đường Nhỏ nghĩ: “Bây giờ mình hết làm tu sĩ rồi, mình cũng không còn là một người bà la môn nữa rồi.” Và ông khóc lóc thảm thiết.
Động lòng từ mẫn, Đấng Đạo sư chúng ta đi đến bên Đường Nhỏ và hỏi:
“Này Đường Nhỏ tại sao con khóc?”
“Thầy con đã mắng nhiếc chê bai con đủ điều.”
Đức Phật bảo:
Cái gì kẻ ngu ca tụng
Thì bị hiền trí chê bai.
Thà bị hiền trí chê bai
Hơn được kẻ ngu khen ngợi.
Này con, thầy con đã không chịu gian khổ suốt ba a tăng kỳ kiếp để thực hành sáu hạnh ba la mật. Ông ta không làm ra những bài kệ cho con học, mà chính ta đã làm. Vậy Như Lai không dạy cho con đọc được hay sao?”
Đường Nhỏ nói: “Thầy ôi, con là kẻ ngu nhất trong đám ngu, nhỏ nhất trong bọn nhỏ. Làm sao con có thể học đạo được?”
Đức đạo sư trả lời:
Kẻ ngu biết mình ngu
Đích thật là hiền trí
Ngu tự cho mình trí
Mới thật là chí ngu.
Phật cho Đường Nhỏ mấy lời này để nó học thuộc: “Từ bỏ bụi dơ, từ bỏ cấu uế.” Nhưng ôi thôi, chừng ấy cũng quá nhiều đối với Đường Nhỏ. Đức Phật nghĩ, “Ta sẽ thanh lọc nghiệp của y.” Và Ngài nói: “Này Đường Nhỏ, ngươi có thể chùi giày cho các tỷ kheo không?” Đường Nhỏ nói: “Ồ thầy, chuyện ấy con làm được.” Đức Phật bảo. “Vậy con hãy chùi sạch giày dép cho các tỷ kheo. Và này các tỷ kheo, các ông hãy để cho Đường Nhỏ làm công việc ấy, để y có thể sạch nghiệp chướng. Các ông hãy tụng những lời ấy để cho y học.”
Khi Đường Nhỏ học xong, Phật bảo ông: “Bây giờ con không phải chùi giày cho các vị tỷ kheo nữa. Hãy vừa lau quét chùa vừa đọc câu ấy.” Do thần lực của Phật nữa cái nền bên trái ông vừa lau xong, thì nửa bên phải lại dơ. Lau nữa bên phải xong thì nữa bên trái lại đầy bụi dơ như cũ. Nhưng Đường Nhỏ vẫn kiên trì, và trong lúc lau quét, tất cả nghiệp chướng ông được thanh lọc. Khi ấy ý nghĩ này khởi lên nơi ông: “Bậc đạo sư, ‘hãy từ bỏ bụi dơ, hãy gột rửa cấu uế’ là ngài muốn nói cấu uế nội tâm hay ở ngoài? Và tâm ông khởi lên bài kệ sau đây,mà ông chưa từng nghe trước đấy:
Tham ái là cấu uế, không phải bụi;
Cấu uế là chỉ cho tham ái, không phải bụi
Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này,
Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Sân hận là cấu uế, không phải bụi,
Cấu uế là chỉ cho sân, không phải bụi
Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này.
Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Si mê là cấu uế, không phải bụi…
vân vân. Ông đi sâu và những bài kệ ấy, và nhờ thiền định ông đạt quả vị A la hán.
Trong kinh, bài kệ ấy như sau, theo những bản nghi thức chuẩn bị và chỉ giáo truyền khẩu:
“Cấu uế” không phải là bụi trên đất
Mà đấy là cấu uế tham ái.
Khi thực hành thì bài kệ này dễ hiểu hơn, nhưng ta cũng nên trở lui về nguồn gốc của nó.
Khi ấy đức Phật tuyên bố cho chúng tăng biết những đức hạnh của Đường Nhỏ và bảo: “Này A Nan, hãy nói với Đường Nhỏ đi giáo giới cho tỷ kheo ni, và đến bảo ni chúng rằng, từ nay Đường Nhỏ sẽ là giáo thọ sư của họ.”
Đường Nhỏ biết Đức Phật đã công bố những đức hạnh của mình, nên ông hứa sẽ tuân lệnh đi giáo giới cho tỷ kheo ni.
Các tỷ kheo ni vô cùng kinh ngạc trước tin ấy, họ nói: “Hãy xem bọn nữ lưu chúng ta bị chọc quê như thế đấy. Ông ta học một bài kệ ba tháng không thuộc, làm sao lại đi giáo giới cho chúng ta những người tinh thông ba tạng?”
Sau đó một cô đề nghị: “Chúng ta sẽ làm cái gì để từ nay về sau khỏi phải chịu những kẻ ngu ngốc như thế.” Mười hai người họp lại làm một cái tòa giảng thật cao, nhưng không có bực cấp nào để bước lên cả. Những người khác thì đi vào đại thành Xá Vệ loan báo với dân cư rằng: “Ngày mai có bậc giáo thọ sư của chúng ta đến viếng thăm. Vị này là một trong những bậc thánh lớn nhất trong hàng Thanh văn. Chúng ta sẽ nghe Pháp do vị ấy giảng. Người nào chưa đến vị kiến đạo phải đến nghe, nếu không sẽ trôi lăn lâu dài trong sinh tử.”
Hàng trăm ngàn người đến nghe giảng. Một số đi để giải trí, một số khác đi để kiếm công đức. Hôm ấy Đường Nhỏ ra đi khất thực. Sau khi tất cả đã ăn xong ngồi thiền, ông dẫn những tỷ kheo còn lại trong chùa cùng đến chỗ an cư mùa mưa của ni chúng, nơi ông phải đến để giáo giới. Khi đến gần pháp tòa, thấy nó quá cao, ông nghĩ, “Hoặc là họ quá kính trọng ta, hoặc họ muốn thử ta. “Ông nhập định quán tưởng thì biết là họ muốn thử. Đường Nhỏ duỗi cánh tay ra như một con voi đưa ra cái vòi để hạ pháp tòa ấy xuống. Một vài người trông thấy điều này, một số không thấy. Ông ngồi trên tòa rồi lại nhập định. Đường Nhỏ thăng lên hư không và thi triển bốn thứ thần thông tại mỗi nơi trong bốn nơi chính đông, tây, nam, bắc. Những thần thông được thâu hồi lại vào người ông, và bây giờ pháp tòa được nâng đỡ bằng bốn con sư tử.
Ông bắt đầu giảng: “Thưa các chị, tôi mất ba tháng để học một bài kệ. Bây giờ tôi sẽ giảng ý nghĩa ấy trong bảy ngày bảy đêm liên tiếp. Đức Thế Tôn đã dạy: “Đừng để thân, khẩu, ý của ngươi phạm vào lỗi.”Ấy là ngài dạy cho chúng ta từ bỏ mười tà hạnh. Khi ngài nói “lìa nhiễm dục thế gian” thì thế gian ở đây ám chỉ là năm thủ uẩn. “Nhiễm” ám chỉ tham, sân, si làm nhiễm ô năm uẩn ấy.
Ông chỉ mới dạy ý nghĩa chi tiết của nữa bài kệ, mà đã có mười hai ngàn người thấy được chân lý. Một số người chứng được bốn quả thánh là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Có người thành Thanh văn, Độc giác. Cũng có người vào Đại thừa; mỗi hạng đều mong mỏi đạt đến kết quả giác ngộ thuộc hạng của mình, như quả A la hán tiểu thừa hay A la hán đại thừa. Hầu hết đều phát sinh tịnh tín đối với Tam Bảo.
Khi Đường Nhỏ trở về Kỳ Viên, đấng Đạo sư tuyên bố: Trong số những đệ tử Thanh văn của ta thì Chu lợi bàn đà dà (Đường Nhỏ) là người đệ nhất về hạnh giáo hóa mọi người.
Đọc kỹ mấy trang sách trên chúng ta thấy được nhiều điều thậm thâm vi diệu của PHẬT PHÁP. Ở đây chỉ xin nói sơ qua về việc TU HỌC của hai vị TU HÀNH.
1- Mahapanthaka đọc là Ma-Ha Bàn-đà-da dịch theo âm Hán Việt là ĐẠI LỘ ( con đường lớn): Là một người có căn trí sáng suốt thông minh từ nhỏ. Lớn lên là một học giả tinh thông kinh điển Vệ-Đà của đạo Bà-La-Môn. Khi xuất gia TU HỌC theo Giáo Pháp của ĐỨC PHẬT liền đắc Thánh quả A-La-Hán danh hiệu Mahapanthaka đọc là Ma-Ha Bàn-đà-da thường gọi là Bàn-đà ( Thông minh trí tuệ thành tài)
2- Chudapantaka: đọc là Chu Lợi Bàn-đà-da, dịch theo âm Hán Việt là Tiểu Lộ ( con đường nhỏ ) là một người có bản tính tối tăm chậm lụt từ nhỏ (bẩm sinh) nhưng trong quá trình TU HỌC dù gặp muôn vàn khó khăn cực khổ , được bậc Thầy quan tâm dạy bảo cố gắng tới mức tận tâm tận lực THẬT HỌC THẬT TU QUYẾT TÂM TU HÀNH đã đắc quả vị A-La-Hán trở thành một ĐẠI ĐỆ TỬ của ĐỨC PHẬT. Là một Thánh Tăng đã từng giáo hóa cho nhiều người TU được Giác Ngộ danh hiệu là Chu Lợi Bàn-đà-da thường được gọi tắt là Bàn- Đặc (ngu khơ dốt đặc mà thành tài) cho nên hai câu:
                    “ Ai chậm tối ngây khờ như BÀN-ĐẶC ,
                       THẬT QUYẾT TU đạo quả cũng thành công ”!
Để nói về việc; nếu có người nào muốn học bất cứ môn gì, chớ có sinh tâm tự ti hèn hạ ngán ngại sợ sệt không cố gắng học hành không quyết tâm rèn luyện để thăng tiến. Nếu người nào đủ căn tính  tối tăm đến đâu mà cố gắng tới mức tận tâm tận lực THẬT HỌC THẬT TU QUYẾT TÂM THỰC HÀNH và RÈN LUYỆN thì bất cứ việc gì cũng thành công rực rỡ. Câu châm ngôn “ Muốn là được” nghĩa là như vậy.
(138) Khổ thơ:
                    “ Trong vũ trụ ngàn vạn điều linh diệu
   Còn muôn phần cần yếu phải nghiên tầm...
   Tự bưng bít chẳng biết mình kém thiếu
   Vừa Mở Miệng liền kết luận “ Duy Tâm”! ”
Đoạn thơ này lấy ý trong bài kệ của ĐỨC PHẬT dạy trong : “ ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH ”
                               “ Nhược nhãn dục liễu tri
    Tam thế nhất thiết PHẬT
    Ưng quán pháp giới tính
    Nhất thiết duy tâm tạo ”.
“ Duy Tâm ” nghĩa là tất cả mọi việc đều phát khởi từ nơi tâm nghiệp lực của chúng sinh mà chiêu cảm ra. Tất cả những điều như tốt-xấu như: Bệnh dịch, lụt bão, hạn hán, sâu, rầy, chuột bọ, thú rừng, mưa nắng thất thường, động đất, tinh tú đổi dời cac kiếp nạn... cho đến về chiến tranh tàn khốc liên miên.v.v.. đều do ác tâm của chúng sinh gây tạo nên những cộng nghiệp đó chúng ta hãy nghe ĐỨC PHẬT giảng rõ về ý nghĩa của điều “Nhất thiết duy tâm tạo ” trong “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN”
  4- Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao? Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
            Phật nói: Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có người người rõ được tâm, thấy được tánh, y theo Phật dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công đức tụng ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp.
            Tại sao? Hết thảy các Đức Phật và các pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư Phật đều tự nơi tâm mình phát sinh ra, vô cùng vô tận, không hư không lộn, nên gọi là ngộ Phật tâm. Cho nên Phật cùng chúng sanh tâm tánh như nhau, tại người tu và không tu, tin cùng chẳng tin, nên có người làm Phật có người làm chúng sanh.”
(159) Hai câu:
                    “ La Sát suy bụng ta ra kẻ khác
   Tưởng rằng ai cũng Quỉ Quyệt như mình?! ”
Trong “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN” Đức PHẬT dạy : “ Tâm làm ra Thiên đường, tâm làm ra địa ngục, tâm làm ra PHẬT, tâm làm ra chúng sinh. Nếu Tâm chính thì thành PHẬT, tâm tà thì thành Ma. Tâm từ là người của trời, tâm ác là người của La Sát ...” muốn biết rõ tâm địa , cách hành xử và lối sống của loài ác Quỷ La-Sát tại xứ sở của chúng như thế nào chúng ta nghe ĐỨC PHẬT dạy trong “ KINH ĐẠI-THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG”  QUYỂN BA BỘ MẬT TÔNG.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Những việc xưa kia của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, con đã nghe Phật nói. Vậy Bồ Tát đó có những Tam ma địa gì? Kính mong đức Thế Tôn vì con tuyên nói.
Phật dạy: Này thiện nam tử! Những môn Tam ma địa ấy là: Hữu tướng tam ma địa, Vô tướng tam ma địa, Kim Cang sanh tam ma địa, Nhật quang minh tam ma địa, Quảng bát tam ma địa, Trang nghiêm tam ma địa, Tinh kỳ tam ma địa, Tát trang nghiêm tam ma địa, Trang nghiêm vương tam ma địa, Chiếu thập phương tam ma địa, Diệu nhãn tam ma địa, Trì pháp tam ma địa, Diệu tối thắng tam ma địa, Thí ái tam ma địa, Kim Cang phiên tam ma địa, Quán sát nhứt thiết thế giới tam ma địa, Lạc thiện thệ tam ma địa, Thần thông nghiệp tam ma địa, Phật đảnh luân tam ma địa, Diệu nhãn nguyệt tam ma địa, Liễu đa quyến thuộc tam ma địa, Thiên nhãn tam ma địa, Minh chiếu kiếp tam ma địa, Biến hiện kiến tam ma địa, Liên hoa thượng tam ma địa, Thượng vương tam ma địa, Thanh tịnh a tỳ tam ma địa, Tín tướng tam ma địa, Thiên luân tam ma địa, Sái cam lồ tam ma địa, Luân quang minh tam ma địa, Hải thâm tam ma địa, Ða cung tam ma địa, Ca lăng tần già thinh tam ma địa, Thanh liên hoa hương tam ma địa, Vận tải tam ma địa, Kim Cang khải tam ma địa, Trừ phiền não tam ma địa, Sư tử bộ tam ma địa, Vô thượng tam ma địa, Hàng phục tam ma địa, Diệu nguyệt tam ma địa, Quang diệu tam ma địa, Bách quang minh tam ma địa, Quang xí thạnh tam ma địa, Quang minh nghiệp tam ma địa, Diệu tướng tam ma địa, Khuyến a tô tam ma địa, Cung điện tam ma địa, Hiện viên tịch tam ma địa, Ðại đăng minh tam ma địa, Ðăng minh vương tam ma địa, Cứu luân hồi tam ma địa, Văn tự dụng tam ma địa, Thiên hiện tiền tam ma địa, Tương ưng nghiệp tam ma địa, Kiến chơn như tam ma địa, Ðiển quang tam ma địa, Long nghiêm tam ma địa, Sư tử tần thân tam ma địa, Ta để diện tam ma địa, Vãng phục tam ma địa, Giác ngộ biến tam ma địa, Niệm căn tăng trưởng tam ma địa, Vô tướng giải thoát tam ma địa, Tối thắng tam ma địa, Khai đạo tam ma địa.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát chẳng những chỉ có tam ma địa ấy (tam muội, chánh định) mà còn ở mỗi một lỗ chân lông đầy đủ trăm ngàn vạn tam ma địa. Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát còn ở địa vị Bồ Tát mà công đức như thế, cho đến chư Phật Như Lai phải khen ngợi tán thán công đức chưa từng có vậy.
Thiện nam tử! Khi xưa tôi (Phật) còn làm Bồ Tát, cùng với năm trăm người lái buôn, muốn vào nước Sư tử, đem theo các xe cộ, lạc đà, trâu …để tìm kiếm của báu. Tôi dẫn đầu đi đến nước đó, phải đi qua các làng xóm tụ lạc, các thành ấp, khi đến bờ biển, tôi cùng các lái buôn đều lên một chiếc thuyền lớn để đi, lúc bấy giờ đã vào thuyền. Tôi hỏi chủ thuyền: Ông xem chiều gió kia thổi từ đâu đến, thổi đến nước nào? Hay là đến bảo châu, hay nước Xà Bà, nước La Sát ư?  Chủ thuyền ấy xem chiều giới rồi nói thế này: Gió này nên hướng về nước Sư tử mà đi. Thuyền trương buồm nương gió đến nước Sư tử, ở trong nước đó có 500 nữ La sát. Bỗng nhiên biến gió thổi mạnh, biển nổi sóng cuồn cuộn thuyền bị đập vỡ.
Khi ấy các người lái buôn hụp lặn trong nước, thân kia trôi giạt vào bờ và lên được trên bờ. Năm trăm nữ La sát ấy thấy các người lái buôn, ai nấy đều lòng rung động, kêu réo hét lên những tiếng dữ tợn rồi hiện thành những cô gái trẻ đẹp, đến chỗ lái buôn. Họ đem y phục cho các lái buôn, được mặc đồ rồi, tự mình vắt những đồ ướt khiến phơi mau khô. Rời khỏi bờ biển, chúng tôi đến dưới cây Chiêm Ba Ca để nghỉ ngơi. Nghỉ xong cùng nhau nói rằng: Chúng ta nay đây biết làm thế nào? Sanh nhai nghề gì? Chẳng còn phương kế tính liệu làm sao? Nói rồi lặng thinh.
Bấy giờ bọn nữ La sát đến trước những lái buôn nói như thế này: Tôi không có chồng, nên làm chồng mà ở với tôi. Ở đây tôi có đồ ăn, thức uống, y phục, kho tàng, vườn cây, ao tắm. Bấy giờ các nữ La sát, mỗi người đem một người lái buôn về chỗ mình ở. Ở đó trong hàng nữ La sát có một người làm đại chủ tể tên là Ra để Ca lãm. Nữ la sát ấy đem tôi về ở nhà nó. La sát lấy các món ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi thật đầy đủ. Tôi được sống sung sướng không khác gì ở nhân gian. Ăn ngủ ở đó trải qua thời gian hai ba cho đến bảy tuần lễ. Thoạt nhiên tôi thấy Ra để Ca lãm vui cười mừng rỡ.
Bấy giờ lòng tôi sanh nghi lấy làm lạ là chưa bao giờ  thấy nữ La sát ấy cười lên như thế. Tôi liền hỏi: Cô nay cớ chi mà vui cười như vậy. Nữ La sát nói: Nước Sư Tử này là chỗ nữ La sát ở, tôi sợ tổn hại tánh mạng ông. Tôi lại hỏi: Làm sao mà cô biết? Nữ La sát nói: Chớ qua đường hướng nam mà đi. Vì sao vậy? Vì ở đó có thành sắt trên dưới bao quanh không có cửa ngõ, trong đó vô số người lái buôn phần nhiều đã bị ăn thịt chỉ còn xương trắng, nay trong đó có kẻ còn người mất, không tin lòng nhau, thì ông hãy theo đường này đến đó, tự nhiên sẽ tin tôi. Khi ấy tôi chờ đến nửa đêm thì La sát ngủ mê, tôi là Bồ Tát cầm nguyệt quang kiếm soi đờng qua phía nam, đi chung quanh thành sắt mà xem, thấy không có cửa lớn, không có cửa nhỏ, bên thành sắt có một cây Chiêm Ba Ca. Liền leo lên cây, tôi lớn tiếng kêu hỏi thì các người lái buôn trong thành bảo tôi rằng: Hiền đại Thương Chủ! Hãy trở lại đi, biết không? Chúng tôi bị bọn nữ La sát đem nhốt trong thành sắt này, cứ mỗi ngày ăn thịt trăm người.”
Khi nghe các bạn nói những việc đã xảy ra, tôi liền trụt xuống cây Chiêm Ba La, lui y đường cũ phía nam mà cấp tốc trở về chỗ nữ La sát. Lúc ấy La sát bảo tôi rằng: Hiền đại thương chủ! Thành sắt đã nói, trở về thấy chăng? Ông nên nói thật. Tôi nói: Ðã thấy. Tôi hỏi: Làm cách nào cho tôi được ra khỏi nơi này? La sát bảo với tôi rằng: Nay có một cách hay có thể khiến ông yên ổn, ra khỏi nước Sư tử này mà trở về Nam Thiệm Bộ châu. Tôi thấy nói lời phải ấy tôi lại hỏi tiếp cô ta chỉ cho tôi đường nào ra khỏi nước này. Khi ấy Ra để Ca lãm bảo với tôi rằng: Có Thánh Mã Vương hay cứu độ tất cả hữu tình. Tôi liền tìm qua chỗ Thánh Mã Vương, Ngài đang lăn mình nơi đất cát vàng, ăn bạch dược thảo, ăn rồi rung mình đứng dậy lông thân quất ngược, làm như thế rồi mà nói lên rằng: Người nào muốn qua bờ bên kia. Ba lần kêu hỏi: Nếu người nào muốn đi hãy tự nói lên.
Tôi thưa với Thánh Mã Vương rằng: Tôi nay muốn qua bên kia, nói xong tôi vội trở về nhà nữ La sát để cùng ngủ nghỉ. La sát ngủ dậy lòng sanh hối hận những việc đã qua mà hỏi tôi rằng: Thương chủ! Thân ông thế nào? Có lạnh lắm chăng? Hỏi vậy tôi biết ý La sát không muốn cho tôi đi. Tôi liền lấy cớ bảo cô ta rằng: Tôi mới vừa ra ngoài thành, đại tiểu tiện mà trở vào cho nên bị lạnh. La sát bảo tôi nên đi ngủ sớm. Ðến mặt trời mọc tôi mới dậy. Tôi kêu các bạn lái buôn cùng đi rằng: Nay nên ra khỏi thành này mà du ngoạn. Khi ấy các bạn lái buôn tôi đều ra khỏi thành, đến ở một chỗ mà nghỉ, rồi cùng nhau bàn luận: Nay trong chúng ta vợ người nào thật thương chồng? Thấy những gì và làm những việc gì?
Lúc ấy trong chúng tôi có người nói rằng: Họ lấy những đồ ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi.
Người khác lại bảo: Họ lấy các thứ y phục đẹp đẽ cho tôi, hoặc nói lấy mão trời, vòng ngọc, đeo tai, y phục cho tôi.
Hoặc: Tôi đã không được vừa lòng.
Kẻ nữa lại bảo: Họ lấy các món long xạ hương, chiên đàn hương cho tôi. Khi các bạn lái buôn tôi nói xong, tôi bảo: Các bạn  khó giải thoát. Bởi vì sao? Vì thương yêu nữ La sát vậy. Những người lái buôn nghe lòng nghĩ lo sợ mà hỏi rằng: Ðại thương chủ! Thật như vậy ư? 
Tôi mới bảo rằng: Ðây là nước Sư Tử, chỗ nữ La sát ở chứ chẳng phải người vậy. Ðây thật là lời nữ La sát nói với tôi: Chỉ có Phật Pháp Tăng mới biết rõ đây là nữ La sát. Bấy giờ các lái buôn nghe rồi tôi liền bảo họ rằng: Nước Sư Tử này có Thánh Mã vương hay cứu tất cả hữu tình. Ngài lăn mình nơi đất cát vàng, ăn đại bạch dược thảo, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược mà ba lần kêu hỏi lên rằng: Ai muốn qua bờ bên kia? Tôi thưa Ngài Mã Vương rằng: Tôi nay muốn qua bờ bên kia. Bấy giờ các lái buôn lại nói với tôi rằng: Ngày nào đi? Tôi bảo các người ấy sau ba ngày quyết định sẽ đi. Các người hãy nên sắm đủ lương thực. Nói xong sau đó tôi và các bạn lái buôn cùng trở vào thành. Ai nấy đều trở về nhà nữ La sát. La sát thấy tôi về đến niềm nở thăm hỏi: Ông có mệt nhọc chăng? Tôi hỏi cô La sát: Tôi chưa từng thấy ý người vui vẻ, vườn cây ao tắm là có thật ư?  Lúc ấy La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương chủ! Nước Sư tử này có các thứ hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm. Tôi bảo cô ta rằng: Hãy sắm đủ lương thực cho tôi, tôi muốn sau ba ngày đi dạo xem vườn cây, ao tắm, xem những danh hoa đẹp đẽ kia, tôi sẽ hái các thứ hoa ấy mà đem về nhà. Cô La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương chủ! Tôi sẽ sắm đủ lương thực. Lúc ấy sợ cô La sát biết phương kế chắc sẽ giết tôi, tôi nghĩ như vậy mà làm thinh. Cô La sát lấy đồ ăn thức uống rất ngon cho tôi ăn, ăn rồi tôi than thở. Cô La sát hỏi: Ðại thương chủ! Cớ chi mà than thở vậy? Tôi bảo cô rằng: Tôi vốn là người Nam Thiệm Bộ châu, nghĩ nhớ đất cũ. Cô La sát bảo tôi rằng: Ðại thương chủ! Chớ nhớ xứ cũ làm gì. Nước Sư Tử này có các thứ ăn uống, y phục, kho tàng các điều hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm, thọ hưởng các thứ khoái lạc. Cớ vì sao lại nhớ Nam Thiệm Bộ châu kia? Tôi bấy giờ làm thinh mà yên ở đó. Qua ngày ấy rồi, đến ngày thứ hai, cô La sát sắm đủ các thứ lương thực đồ ăn uống cho tôi. Các thương nhơn khác cũng đều sắm đủ lương thực. Qua ngày thứ ba khi mặt trời vừa mới hừng mọc, tôi đem tất cả những người lái buôn đều ra khỏi thành. Ra khỏi thành chúng tôi cùng bàn: Chúng ta nay nên đi mau, không nên ngó lại nước Sư tử này. Nói xong tôi cùng chúng bạn tức thời vội vã qua đến chỗ Thánh Mã vương, đến nơi thấy Thánh Mã vương đang lăn mình ăn cỏ, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược. Khi ấy nước Sư tử đất đều chấn động, Mã vương ba lần nói rằng: Nay người nào muốn qua bờ bên kia? Các bạn lái buôn đồng nói lên rằng: Chúng tôi nay đều muốn qua bờ bên đó. Lúc ấy Thánh Mã vương vươn mình mạnh mẽ nói lời vội thúc rằng: Các người nên đi trước, chớ ngó lại nước Sư tử! Thánh Mã vương nói như vậy rồi, bấy giờ tôi thừa cỡi Mã vương đi trước, năm trăm lái buôn đều lên ngựa theo sau.
Khi ấy trong nước Sư tử các nữ La sát thoạt nghe tin các lái buôn đi, miệng nói lên những lời thống khổ, liền cấp tốc đuổi theo, theo sau kêu gào, khóc thương than thở! Các bạn lái buôn tôi nghe tiếng động lòng, quay đầu ngó lại, trong chốc lát đều rơi xuống nước. Các nữ La sát với thân kia lên thảy đều ăn thịt. Khi ấy chỉ còn một mình tôi về được Nam Thiệm Bộ Châu, Thánh Mã vương đưa tôi đến tận bờ biển. Ðến bờ, tôi bước xuống nhiễu quanh Thánh Mã vương ba vòng, rồi tìm đường mà về chỗ cũ. Ðã về đến nhà, cha mẹ thấy tôi ôm chân tôi mừng rỡ, thương khóc nước mắt tuôn trào. Cha mẹ trước kia vì thương nhớ tôi khóc than, nên đôi mắt phải mù lòa, nay tôi về lại sáng tỏ như xưa. Cha mẹ cùng tôi ở chung một chỗ. Tôi bèn thuật lại đầy đủ những việc đã trải qua cùng bao gian khổ. Cha mẹ nghe rồi bảo với tôi rằng: con ngày nay được toàn tánh mạng yên ổn mà về, ta hết sức sung sướng không còn lo buồn nữa, ta không mong con phải cho ta nhiều của báu, nay chính ta tự biết tuổi già sức yếu cần con gần gũi sớm chiều một bên, ta sẽ chết, con hãy làm chủ mà tống tang ta. Khi xưa che mẹ đã nói lên những lời ngọt lành như thế mà an ủi tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi khi ấy làm thân thương chủ đã chịu những việc khổ sở nguy nan như vậy!
Bấy giờ, Ðức Phật dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Thánh Mã vương ấy tức Quán Tự Tại đại Bồ Tát, trong cơn nguy hiểm, lo sợ ấy đã cứu giúp tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi nay không thể nói hết số lượng công đức của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Tôi chỉ vì ông mà lược nói về Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát , trong lỗ chân lông nơi thân của Ngài đã có công đức. Trừ Cái Chướng! Thân Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có lỗ lông vàng kim sắc, trong đó có vô lượng trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn Ðạt Phạ. Những Ngạn Ðạt Phạ ấy không còn chịu khổ luân hồi mà hưởng thọ sự tối thắng khoái lạc, thọ dụng các vật ở cõi trời không cùng tận, không có ác tâm, không lòng ganh ghét, không tham sân si, thường tu hành Bát Chánh Ðạo, thường thọ pháp lạc.
La Sát là những hạng người nào? Xứ sở của La Sát ở đâu ?
Đọc phần văn kinh trên chúng ta thấy được ở nơi nào cũng có nhiều kẻ tham ác quỉ quyệt những loại đó có phải là La Sát không ? Những hạng người chỉ luôn luôn mong muốn thu lại lợi lạc cho mình đã không từ bất cứ một mưu ma quỷ kế nào để bắt kẻ khác phải làm lợi ích thỏa mãn dục vọng của mình ?...
Trái ngược với loài La-Sát ác độc đó có những BẬC THIỆN NHÂN luôn luôn hòa nhập lăn lộn, tắm mình trong biển khổ sinh tử luân hồi mà không hề ngán ngại thoái lui thường hằng tỉnh giác, dùng mọi phương tiện cứu độ cho người được thoát khổ an vui…
Như HIỀN ĐẠI THƯƠNG CHỦ là một tiền nhân của ĐỨC PHẬT THÍCH CA, như THÁNH MÃ VƯƠNG là một hóa thân của QUÁ KHỨ CHÍNH PHÁP MINH NHƯ LAI, hiện tại là QUÁN TỰ TẠI ĐẠI BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM…và các hàng đệ tử thân tín của NGÀI !...
(150) Hai câu thơ :
                    « Người thiện đức khác hẳn phường tham ác,
                       Quí đẹp thay THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH ! »
Chúng ta hãy nghe ĐẠI SƯ PABÔNGKA RINPOCHE là Thầy Giáo-Thọ của ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ở TÂY TẠNG (ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA hiên nay toàn thế giới  đều suy tôn Ngài là ĐỨC PHẬT SỐNG chính là hóa thân đời thứ 14 của ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT tại Tây Tạng ) giảng ngày thứ 8 của sách « Giải Thoát Trong Lòng Tay »  để thấy rõ sự cần thiết phải tìm và nương tựa vào một BẬC THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH như thế nào ?
Nương tựa vào bậc thầy không mà thôi chưa đủ, bạn phải nương một bậc thầy có thể giảng dạy con đường toàn diện. Một người chỉ có vài đức tính - như có lòng tốt, chẳng hạn - đôi khi lại không có khả năng giảng dạy con đường toàn diện. Dù người đệ tử có thể có tín tâm, trí tuệ và kiên trì, nhưng nếu bậc thầy không làm chủ hoàn toàn kinh điển và mật điển, thì những môn đệ sẽ đành trọn đời để tu chỉ một vài pháp như quy y, vài pháp quán chư thiên, thiền định về khí lực và huyệt đạo, vân vân. Sự tái sinh may mắn của người môn đệ như vậy không trở thành có ý nghĩacho lắm. Bởi thế bạn phải nương tựa một bậc hướng đạo tâm linh có khả năng toàn diện.
Có nhiều khả năng khác nhau: truyền giới Biệt Giải Thoát, giới mật tông và Bồ đề tâm giới v.v.. Đây tôi sẽ nói đến những khả năng của một bậc thầy có thể giảng dạy Lam-rim toàn diện. Bạn phải tra tầm xem một vị thầy có đủ những khả năng như vậy hay không, trước khi tìm đến nương tựa. Không những bạn cần xem xét khả năng bậc thầy nào bạn muốn nương, mà bất cứ người nào muốn hướng dẫn người khác về Luật tạng, Kinh tạng hay Mật tạng, đều phải tự xét mình có đủ khả năng trong lĩnh vực ấy hay không. Nếu chưa đủ khả năng, thì phải làm sao cho đủ khả năng cái đã. Không phải chỉ cần có đủ bộ sậu đồ lề của mật tông như bình cam lồ cho thọ mạng hoặc dụng cụ làm lễ tắm chư thiên (xem Ngày Thứ Năm), hay thuộc lòng những nghi thức ấy mà đã là đủ tư cách để làm thầy.
Có những loạt điều kiện khác nhau: một loạt điều kiện để làm tu viện trưởng và thầy truyền giới có thể dạy giới luật; một loạt để làm thầy về pháp Đại thừa nói chung, một loạt để làm thầy về các mật điển. Tôi sẽ mô tả những tư cách của bậc thầy thuộc pháp Đại thừa nói chung. Quyển Trang Nghiêm Kinh của đức Di Lặc nói:
Hãy nương một bậc thầy
Đã được điều phục, rất an, rất tịnh,
Người có nhiều đức tính hơn mình,
Kiên trì, một kho tàng kinh điển,
Thực chứng chân như
Có tài biện thuyết, có từ bi,
Đã từ bỏ sự thất vọng.
(Về cung cách của đệ tử).
Như vậy có mười đức tất cả: dòng tâm thức của bậc thầy phải được điều phục nhờ giới. Tâm tán loạn của bậc thầy phải được rất an nhờ định chỉ nhất tâm. Sự chấp thủ bản ngã nơi bậc thầy phải rất tịnh nhờ trí tuệ. Khi một cây hương trầm được đặt giữa những que cũi khác, thì cũi cũng thơm lây, cũng thế bạn sẽ có những đức tính và khuyết điểm của vị thầy. Bởi thế thầy phải có nhiều đức tính hơn bạn. Thực chứng chân như là như vầy. Thầy đã khám phá tri kiến nhờ trí tuệ do học hỏi (văn tuệ). Kiến là tri kiến theo bộ phái Pràsangka. Đây là tăng thượng tuệ; tôi không nói đến trí tuệ có được khi ngài ta khám phá ra tri kiến theo bộ phía Svàtantrika (Kinh Lượng bộ) và dưới đó (xem Ngày Thứ Hai Mươi Hai, trang…) Phần còn lại đã dễ hiểu.
Những bậc thầy cần có đủ những đức nói trên, và chắc chắn có ít nhất năm điều này: một dòng tâm thức đã điều phục nhờ một trong ba môn học tăng thượng là giới,v.v…, từ và bi, và thực chứng chân như, Geshe Potowa nói:
“Mọi người trong gia đình thầy Yerpa tôi tin rằng thầy chưa từng học nhiều, lại không kiên nhẫn khi bị trái ý, cho nên chẳng được cái gì. Nhưng Yerpa có năm đức tính này và bất cứ ai gặp thầy cũng được lợi lạc.”
(173) Khổ thơ:
                    “ Vui biết mấy TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ!
   Từ TÂY-NINH, BÌNH ĐỊNH… tới SÔNG HỒNG,
   Tận tâm cứu kẻ “ nhất sinh thập tử ”
   Ai thương người hơn HÀNH GIẢ MẬT TÔNG ”
Xin tạm lược giải nghĩa của thành ngữ: “TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ ”
1- Hiểu với nghĩa thông thường “ trụ ” là “ trụ - xứ ” “ khu vực” “ vùng ”…như nghe người ta thường nói “ trụ xứ Đại ninh, Lâm Đồng ”, ta hiểu là khu Đại Ninh thuộc tỉnh Lâm Đồng hoặc “ ở vùng Đại Ninh, tỉnh Lâm Đồng ”.v.v
2- “ TRÌ ” là “ nắm giữ ” “ cầm giữ ” “ gin giữ ”
          Các vị TU HÀNH XUẤT GIA ở trong chùa đông người phải cử ra các chức như: Viện - Chủ, Trụ - trì, Trị - sự, Tri – Khách, Tri – chúng, Tri – khố, Tri – trù, v.v..
          Chức TRỤ TRÌ để chỉ người được TĂNG chúng trong chùa tín nhiệm đề cử lên cao nhất để chỉ đạo tất cả mọi việc trong chùa, điều hành các vị Trị - sự, Tri – Khách, Tri – chúng v.v..
          Những Chùa có ít người chỉ có một người thì gọi là “ trụ trì ” là để chỉ cho người ở trông coi ngôi chùa đó, phải làm tất cả mọi công việc tạp nhạp từ cúng lễ, bái sám, cầu an, cầu siêu, sớ sách.v.v..theo sự yêu cầu của người ở xứ sở đó:
                    “ Ai bảo “TRỤ TRÌ dâu trăm họ” ?
   Làm mướn không công… mãi long đong! ”
Nhiều nơi có thùng “ Phước-Sương ” hay thùng “ TAM BẢO Phước- Điền ” đựng tiền của đàn na tín thí cúng vào để xây cất tu tạo hoặc sửa chữa chùa v.v..vị TRỤ TRÌ không được sử dụng chìa khóa thùng “ TAM BẢO Phước- Điền ” do những người của địa phương đó giữ để thu cất tiền. Vị TRỤ TRÌ thấy cần xây cất hoặc tu sửa gì ở chùa đều phải hỏi ý kiến của những người này, họ có đồng ý mới được làm, họ không cho thì cũng phải chịu, làm gì không vừa ý họ liền bị họ chê bai. Có phải làm dâu trăm họ không? Có điều không làm hài lòng họ, thì bị họ kêu đòi tới la rầy phiền trách.
                    “TRỤ TRÌ lao nhọc hơn “ đầy tớ ”
  Kẻ khiến người sai… lúc quan đòi ”
Khi có việc cần đi đâu không thể bỏ đi được:
                    “ Mang tiếng TRỤ TRÌ thành buộc cột,
   Chẳng muốn đèo bong phải đa mang!
  Không xiềng không trại mà giam nhốt?
  Trọng trách đeo mang hóa buộc rang! ”
Như một “tên tù khổ sai chung than” tại nơi đó:
                    “ Trách nhiệm nặng nề thành trói buộc
   Chùa hóa “trại giam” “nhốt”  TRỤ TRÌ! ”
Có nơi vị TRỤ TRÌ “ không khéo chiều khách” còn bị người ta giận hờn chửi bới thù oán đánh mắng đuổi đi với hai bàn tay trắng ( có bạc bẽo không ? ) chẳng phải là:
   “ Làm mướn không công… mãi long đong! ”
Mang tiếng làm TRỤ TRÌ chùa theo tính cách trên thật không được thanh thoát an lạc một chút nào!...
          Hai chữ “ TRỤ TRÌ ” đã được ĐỨC PHẬT giảng dạy rõ trong KINH, ở đây xin tạm lược giải như vầy:     TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA,
                                        TRÌ NHƯ –LAI MẠNG
Lược giải nghĩa:
          “ TRỤ ” Là ở trong ngôi nhà chính pháp của ĐỨC PHẬT xây bằng GIỚI-ĐỊNH-TUỆ. Gồm TAM TẠNG: KINH-LUẬT-LUẬN.
          “ TRÌ ” là nắm giữ hoằng truyền làm cho mạng mạch của PHẬT PHÁP mãi mãi HƯNG THỊNH.
          Lĩnh hội được ý chỉ lời ĐỨC PHẬT dạy như vậy cho nên trong bài “ Bóng Nhạn Lưng trời ” HÀNH-GIẢ đã viết:
                    “Trụ trì : lãnh thọ, truyền Tam-Tạng,
  Đời đời ân « TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA »
  Kiếp kiếp nguyện «  TRÌ NHƯ LAI MẠNG »,
  Con hiếu trung kiên của Phật – Đà!
3- “LƯU LINH TỰ”
- Từ “Lưu linh tự ” để chỉ người đi nhiều nơi, ở nhiều xứ, tượng tự như từ “ giang hồ ”
“ Quần toạc ống khâu đường kim vạn dặm,
   Áo bục vai tôi vá mụn “ giang hồ ”...
( Trích trong bài “ Tâm sự một chặng đường” – 1972 Bắc-Sơn-Đình)
Ca dao Việt Nam cũng nói:
          “ Đành rằng máu chảy về tim
   Đố ai ngăn được cánh chim giang hồ…”
ĐỨC PHẬT đã dạy bài kệ về hạnh DU TĂNG KHẤT SĨ:
                    “ Nhất bát thiên gia phạm
   Cô thân vạn lý du
   Dục cùng sinh tử lộ
   Khất hóa độ xuân thu ”
ĐỨC PHẬT lại dạy các đệ tử xuất gia:
                     “ Nhật trung nhất thực
                        Thọ hạ nhất túc”
Nghĩa là:       “ Giữa ngày ăn một bữa
                        Dưới gốc cây ngủ một đêm”
“ Tự nghĩa là chùa ”  như nói “ Ấn Quang Tự ” ta hiểu là  “ chùa Ấn Quang ”  hay nói “ Thiếu Lâm Tự ” là “ chùa Thiếu Lâm ”
ĐỨC PHẬT dạy các đệ tử hạnh xuất gia ở chùa là ở “ CỬA KHÔNG ” ( không vướng mắc vào tài sắc danh lợi ) vậy mà có nhiều người “ Xuất ” cái “ Tiểu Gia” có cha mẹ, vợ, chồng, con cháu…lại “ Nhập ” cái “ Đại gia” chất chứa đầy trần gian phiền não. Ngôi chùa đó có khác chi một quầy hàng “ Bách hóa tổng hợp”. Nếu không nói  gồm đủ các món ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy; thì cũng không mấy khi thiếu vắng các món Tài, danh, lợi…Họ lại nuôi lợn, gà.v.v.. để ăn thịt và bán kiếm lời. Họ lại để mọi người mang hành, tỏi, rượi thịt vào cúng lễ và ăn uống trong chùa để “ cầu tài lộc”, như vậy không phải một dịch vụ đó sao?
Chùa còn gọi là “ngôi TAM BẢO” (ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo)
Sao lại có thêm “điện thờ Mẫu” ( đền và điện thờ thánh, đình và miếu thờ thần ) để lên đồng bong “ hầu ” Thánh!
          Vậy ở chùa nào có “Điện thờ Mẫu ” phải gọi là “ngôi Tứ Bảo”(?) và vị sư ở đó vừa là thành phần nhỏ trong ngôi “ Tăng Bảo ” là là “ Thành phần quan trọng ” trong “ ngôi đồng bóng bảo” buôn thần bán thánh nữa?!...
          Ngôi chùa nào như vậy có khác chi một cửa hàng TRỤ TRÌ ở nơi đó có khác chi người “cửa hàng trưởng” của một “công ty thương mại” ?
                    “ Mượn tiếng GIÀ-LAM làm “dịch vụ”
   Bán lợi buôn danh tội lu bù! ”
Mang tiếng là người TU HÀNH làm TRỤ TRÌ ở chùa theo kiểu “cửa hàng trưởng” của một “ Bách hóa tổng hợp” hay làm “ giám đốc ” một “Dịch vụ ” như vậy thì sướng  hay khổ? Sang hay hèn? Vinh hay nhục? AN LẠC GIẢI THOÁT hay trầm luân đọa lạc?...có đáng thương không ?! Tội nghiệp không?!...
          Ở đây HÀNH-GIẢ chỉ ứng thích kham nhận làm TRỤ TRÌ với nghĩa:
                    “TRỤ TRÌ lĩnh thọ truyền TAM TẠNG,
                      Đời đời ân TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA
                      Kiếp kiếp nguyện TRÌ NHƯ LAI MẠNG
                      Đệ tử trung kiên của PHẬT ĐÀ!”
… HÀNH-GIẢ mỗi khi có việc từ trong Nam ra hay từ cao nguyên về hoặc từ miền Bắc vào thường tới vấn an sức khỏe và cúng các thứ thuốc như: thuốc chữa bệnh đau dạ dày ( bao tử), thuốc bổ tổng hợp, thuốc bổ thần kinh, và chữa mất ngủ kinh niên, thuốc phong thấp ( chữa các chứng tê, bại, xụi, đau nhức mỏi).v.v.. Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn nguyên trước ngày giải phóng Miền Nam phụ trách Phật-Giáo các tỉnh Tây Nguyên: GIA LAI, PLÂY-KU, KON-TUM, ĐẮC-LẮC hiện nay là TRỤ TRÌ chùa Thiên Đức xã Nhân An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Mỗi khi thấy HÀNH GIẢ tới cúng thuốc thường tán than: “ Thời nay muốn TU Hạnh “ ưng vô sở trụ ” “ thiểu dục” “ Hỷ túc ” “ Thượng cúng dường TAM BẢO, Hạ bố thí chúng sinh ” như Thượng Tọa không phải là dễ…với tâm TỪ BI cứu khổ ban vui cho chúng sinh , Thượng Tọa đã dung công hạnh Dược Sư dung Y-PHƯƠNG-MINH kết hợp với PHẬT PHÁP, đặc biệt là các pháp của MẬT TÔNG cứu độ chúng sinh nhiều nơi cả ba miền TRUNG-NAM-BẮC … giờ đây Thượng Tọa lại nguyện cứu độ người mien cao nguyên biên địa nghèo  khổ xa Thầy thiếu thuốc…Mặc dù trời mưa bão lụt gian nan cực khổ mà không hề ngán ngại. Tôi thật hoan hỷ tán than và sẵn sang ủng hộ những PHẬT SỰ PHÁP-SỰ “ cứu khổ chúng sinh là cúng dường chư PHẬT ” mà Thượng Tọa đã thực hành không mỏi mệt nhiều năm qua…
- Nam mô A-DI-ĐÀ-PHẬT! Hòa Thượng đã chứng minh và chú nguyện cho con như vậy con rất hoan hỷ! Con xin đa tạ ân đức Hòa Thượng! con thấy con chưa làm được việc chi để đền đáp ân đức của TAM BẢO cho xứng đáng được, con còn phải tinh tấn cầu TU Học nhiều hơn nữa để tiếp nối sự nghiệp TỪ BI CỨU KHỔ ban vui cho chúng sinh của ĐỨC PHẬT và chư vị TỔ SƯ…
          Sư cụ Thích Thanh Côn hiện đạng TRỤ TRÌ chùa Quảng Bá tại Thủ đô Hà Nội là đệ tử của cố Đại lão Hòa Thượng PHÁP CHỦ Thích Đức Nhuận trong những năm 1984 1988 HÀNH GIẢ thường về cầu xin giảng thêm  một số điều trong Bộ Kinh Phạm Võng
Bồ Tát Giới Chú Giải và thường được cúng thuốc lên Hòa Thượng Pháp Chủ. Năm 1988 sau 10 năm xa cách khi gặp lại SƯ CỤ TRỤ TRÌ CHÙA QUẢNG BÁ rất hoan hỷ nói:
          “ Xa cách lâu ngày, nay lại có duyên tái ngộ thấy Thượng Tọa càng tráng kiện dũng mạnh hơn xưa. Khi còn tại thế Hòa – Thượng thường tán than hạnh ham học ham TU và Hạnh Dược Sư của Thượng Tọa. Ngày nay Thực hành được các công Hạnh “ ưng vô sở trụ ” “ nghiêm trì giới luật ” “ Thượng cúng dường TAM BẢO, Hạ bố thí chúng sinh ” đặc biệt là hạnh “ xả thí ” như Thượng Tọa không phải mấy ai có thể dễ dàng làm được! Tôi lại rất thích việc Hành-Trì các pháp MẬT TÔNG dung THẦN CHÚ ĐẠI BI gia trì vào cát, vào tro đem rải lên hoa màu, lúa mạ, lên cây trồng, cho sâu, rầy chuột, bọ thú rừng khỏi cắn phá mà lại càng bội thu tốt lên! Phật Pháp thậm thâm vi diệu có mấy người chịu khổ công TU LUYỆN để được thành tựu các việc như Thượng Tọa đã làm!”
- Nam mô A-DI-ĐÀ-PHẬT! Sư cụ quá khen hàng sơ cơ hậu học chúng con còn phải cố gắng TU HỌC nhiều!...
Người TU HÀNH xây được ngôi nhà chính pháp của ĐỨC PHẬT bằng GIỚI-ĐỊNH-TUỆ, giữ gìn được mạng mạch của PHẬT PHÁP trong tâm mình rồi thì dù đi tới đâu ở bất cứ nơi nào cũng có thể kiến lập ĐẠO TRÀNG TRANG NGHIÊM THANH TỊNH và đương nhiên không cần ai bầu bán tấn phong cũng là TRỤ TRÌ ĐẠO TRÀNG vô danh đó ( không cần trưng bảng hiệu vẫn có người tìm tới )
          Người TU hành “ ưng vô sở trụ ” không bị dính mắc vào đâu:
                    “ TAM – Y  NHẤT BÁT VUI HÀNH CƯỚC
   HIỆP SỸ DU TĂNG Mến giang hồ
          “ Ứng vô sở trụ” Chi ràng buộc?
          “ Thi sỹ nửa mùa”… hứng,,, làm thơ!”
Thật là rảnh rang an lạc!
          “Tiện đây HÀNH GIẢ tỏ lời cảm ơn các Phật tử: Dương Ngọc Tạo Pháp Danh Chúc Thành, Trần Xuân Ái Pháp danh: Giác Đại, Nguyễn Thị Gạt Pháp Danh: Giác Hải, Nguyễn Thị Cán Pháp danh Giác Căn, Nguyễn Ngọc Phi Pháp danh: Giác Phương, Vũ Văn Mực Pháp danh: Giác Hưởng…đã tạo cho HÀNH GIẢ một “thời cơ” tốt để thoát khỏi TRỤ TRÌ CHÙA QUẢNG PHƯƠNG TỊNH XỨ. Trước đó kể từ khi Phật tử tới xin xây cất chùa HÀNH GIẢ đã từ chối không kham nhận nói rằng: “Các Phật tử cố gắng TU GIẢI THOÁT là quí lắm rồi! Xây cái chùa chiền nếu không làm đúng pháp sẽ xẩy ra nhieuf điều tai hại không lường được! tôi không muốn nhận lãnh chùa và không muốn làm TRỤ TRÌ một ngôi chùa giàu có danh tiếng nào. Kẻ bần Tăng hèn mọn này chỉ vui ưa với cảnh núi rừng am tranh vách đất đạm bạc thanh bần!”
…Bởi vậy khi bàn giao cúng chùa QUẢNG PHƯƠNG TỊNH XỨcho Tỉnh hội Phật Giáo Tỉnh BÀ RỊA VŨNG TÀU để được rảnh rang TU HẠNH  XẢ LY theo sở nguyện:
                    “ TAM – Y  NHẤT BÁT VUI HÀNH CƯỚC
   HIỆP SỸ DU TĂNG Mến giang hồ”
Xin nhận làm “TRỤ TRÌ lĩnh thọ truyền TAM TẠNG,”
Là HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG, sẵn sang dung mọi phương tiện từ; Nhân tài vật lực mình có thể tạo được đi “CỨU TRỢ VÔ THỜI HẠN ” ở bất cứ vùng thâm sơn cùng cốc nào nghèo khổ khó khăn xa Thầy thiếu thuốc. Mạc dù có nhiều người cho là khó khăn cực nhọc, HÀNH-GIẢ vẫn thấy thanh thản an lạc mà xướng lên rằng:
“ Vui biết mấy TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ!
   Từ TÂY-NINH, BÌNH ĐỊNH… tới SÔNG HỒNG,
   Tận tâm cứu kẻ “ nhất sinh thập tử ”
   Ai thương người hơn HÀNH GIẢ MẬT TÔNG ”
Và cảm niệm công đức với Sư muội của mình là Sư cô Ngộ Mai hiện đang TRỤ TRÌ chùa PHẬT MINH xã Giao Hòa, huyện Châu Thành, Tỉnh Bến Tre. Nên HÀNH GIẢ đã viết:                “ Ôi sảng khoái TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ!
                         KHI BẾN TRE, HÀ NỘI… lúc LÂM ĐỒNG,
                       “ Chí ngang dọc phiêu bồng làm Pháp lữ”
                       Ai “ Phớt đời ” hơn HÀNH GIẢ MẬT TÔNG!”
( Trích trong bài “Bóng Nhạn lưng trời”)
“ Phớt đời ” là « Phớt bơ”  tám mối bận tâm ở đời : khen, chê, được-mất, vui-buồn, vinh-nhục tám mối bận tâm thế tục này ví như tám luồng gió bão nói theo danh từ PHẬT PHÁP gọi là « Bát Phong » Tám ngọn gió cực kỳ hung dữ nayftuyf thời tùy xứ nó có thể tạo thành những luồng phong ba bão táp quật ngã cả nhiều thế hệ, và làm cho nhiều người phải sống trong cảnh thất điên bát đảo! Tám ngọn gió này chỉ thổi ngã được hàng phàm phu “ Bát Phong ” không thể làm lay chuyển được tâm của các VỊ TU HÀNH đã đạt đến “ TÂM BẤT ĐỘNG ”, “TÂM KIM CƯƠNG”
*
*        *
CHÚ THÍCH: gồm 166 mục. Vì công việc bận rộn nhiều chưa có thể viết lần lượt theo thứ tự từ đầu cho đến hết liền được, cho nên HÀNH GIẢ phải suy xét xem mục nào cần hơn thì làm trước còn những phần khác xin khất lại thời gian sau….
( Ngày rằm tháng 4 năm kỷ mão (1999)

“Sau đó do bận viết “ Nhân Quả Giả Thật ” và bận nhiều công việc lại không may bị ngã bệnh nặng và Hòa Thượng đã qua đời (2005) công việc dang dở …”