PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN
- THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN
NƠI
THƯỢNG QUẢNG HẠ ĐỊNH
Trích VÔ NHẤT ĐẠI SƯ dạy trong “ Ẩn tu
thi tập ”
( Nguyên là Giáo sư TRường Cao Đẳng PHẬT
học Huệ Nghiêm
Và Trường Đại học PHẬT GIÁO Vạn Hạnh, Đô Thành Sài Gòn )
…….
“ẨN TU dường thấy khắp nhơn tình
Trái đạo luân
thường tạo sát sanh
Nên khiến tai
trời thêm ách nước
028.Vầng hồng xế bóng khắp Tây khuynh.
ẨN TU nhằm biết
chuyển cơ trời
Nhân quả lọc
thanh đạo với đời
Tai biến dập dồn
muôn cảnh chết
035.Núi xương sông máu thảm đầy vơi.
ẨN TU tuy biết lý
cao siêu
Mà chẳng thích ưa
lý luận nhiều
Căn tánh người
nay đà kém loạn
128.Nói hay làm phỏng được bao nhiêu
ẨN TU hoa cỏ dáng
thờ ơ
Thời mạt nhân
thân đã khác xưa
Lòng thú hình người đầy lớp lớp
316.Cảnh đời gió gió lại mưa mưa.
ẨN TU lý đạo nói
sao cùng
Nhân quả nghiêm
minh xử lạnh lùng
Tài sắc giàu sang
âu cảnh tạm
348.Sáng tươi chiều héo đóa phù dung
“
……
Trích Lời VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
dạy trong “ Pháp
yếu TU HÀNH ”
Nhớ lời cổ đức dặn:
« Ta có mật bí
quyết
Nhất thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm màu cực nhiệm màu. »
Hãy ghi nhớ điều này
Lắng lòng suy nghĩ sâu.
⃰⃰⃰⃰
⃰ ⃰
Trời xanh suối biếc một bàu,
Ánh trăng vẫn sáng một màu xưa nay.
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u hoài thêm thương.
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên.
Bụi hồng tung gió đảo điên,
Vô tình Mai nở dịu hiền cành xuân.
< Trích trong « Pháp yếu tu hành » của Vô Nhất Đại Sư, Hòa
thượng Thích thiền Tâm ân sư của đệ tử Tỳ kheo Bồ Tát giới Thích Quảng Định>
PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN
- THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN
NƠI (1)
Tỳ kheo THÍCH THƯỢNG QUẢNG HẠ ĐỊNH
Lều treo bên suối không phên vách
Gió lộng mênh mang chin phương trời
Cầu rửa xếp đá không xây gạch
004.Mưa nước suối
đầy nắng liền vơi…
Tránh mưa: căng bằng vuông bạt lớn
Che nắng: tầng cao tán lá rừng
Ghi-đô ngăn gió ( bao phân bón ),
008.Mưa giông sư đệ
vẫn an lành
Nước ngọt thủy thần luôn mời uống,
Mộc thần hiến củi luộc bánh
chưng!
Ngọn bí, rau lang cùng rau muống,
012.Bé gái còn đem
cúng rau rừng
Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế
Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
016.“Ăn sang” mà
chẳng tốn mấy đồng!(3)
Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi “chè phê”
)
Mấy ngày mưa bão Trai ngọ sớm
020.Tráng miệng
chuối ương chấm muối mè
Đi hái rau rừng xem địa lý!
Phơi đồ còn phải xét thiên văn!(5)
THI SỸ TẢN ĐÀ thành tri kỷ
024.Họa thơ, nối vận
mấy mươi vần!(6)
Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa,(7)
Trời quang, sao sang, trăng đẹp quá,
028.Thanh thản an
nhiên, chẳng thiếu thừa!
HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
Thiểu dục đường TU thích thanh cao(8)
Giàu trăng, giàu gió hơn tỷ phú,(9)
032.Tụng kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO!(10)
GIA LAI, AN-KHÊ thôn
An Thạch,
Lễ rằm mấy người tới
cúng dường,
Sơn thần thành kính
dâng cúng PHẬT
036.Hoa rừng
thanh khiết ngát thơm hương.(11)
Mấy lần mưa gió nay
tạnh ráo,
Thỉnh PHẬT quang lâm
nắng vàng tươi,
Đông người công quả
nơi TAM BẢO,
040.Đồi núi rộn vui tiếng nói cười…
Trồng thuốc cứu
người, hoa cúng PHẬT,
Lương thực, rau xanh
hợp… TU TRÌ,
Bên bờ suối nước,
vừa có đất,
044.Rừng cây núi đá tiện đường đi.
Trồng ngải diệp
nhiều khi cấp cứu,
Củ gừng, củ nghệ, củ
giềng tươi,(13)
Trừ tả: Vú sữa cùng
Thạch lựu, (14)
048.Lạc tiên ngủ tốt lại vui cười, (15)
Lá bưởi, lá chanh
tươi lá sả,
Bạc-hà, ngũ
traorgiair cảm “xông”(16)
Đinh lăng tận dụng
than, rễ, lá,
052.Khi dung bổ dưỡng, lúc cần công, (17)
Mã đề giải nhiệt,
thông đường tiểu,(18)
Tơ hồng, cỏ-gà hợp
chữa ho, (19)
Cỏ may chữa rắn hay
thần hiệu, (20)
056.Kinh giới, tiêu đinh, ngứa, nhạt,
rò…(21)
Dứa gai thông tiểu,
tan tiểu đục,
Sống đời đắp nhọt
thật thần tiên!
Sốt cao xuất huyết
dung cỏ mực,
060.Giã tươi vắt uống hạ sốt liền!
Nhiều người tha
thiết cầu theo học:
Y phương PHẬT PHÁP
cứu độ người
Cứu khổ ban vui quên
khó nhọc,
064.Hóa giải buồn đau thấy đẹp tươi
Thầy ngồi cặm cụi
bên chồng sách,
Tìm phương cứu chữa
bệnh nơi đây,
Gió núi mưa rừng
miền An Thạch,
068.Thiếu thuốc đường xa, khó rước Thầy.
Ai chê ta “ chết nằm
trên thuốc ” ?
Thuốc Nam nào kém thuốc
ĐÔNG-TÂY ?
Người việt ta khéo dùng
NAM DƯỢC, (22)
072.Vua Tàu thỉnh rước nặng ơn dày ! (23)
Khi cần bầu giác hay
chích lể,
Thuốc thang trong
uống chữa ngoài « xông »!
Thuốc tán, thuốc
hoàn, khi phương tễ,
076.BẤM-HUYỆT, YOGA, hợp KHÍ CÔNG.(24)
“TUỆ TĨNH TOÀN THƯ”
SƯ TUỆ TĨNH,(25)
Tự độ độ tha thật
công trình! (26)
Đọc “HẢI THƯỢNG Y
TÔN TÂM LĨNH”..(27)
076.“DƯỢC TƯỚNG CHỈ NAM ” NGUYỄN VĂN
MINH..(28)
Thượng tọa TÂM ẤN “CHÂM
CỨU HỌC”(29)
“CHÂM TÊ” Tiến sỹ
NGUYỄN TÀI THU,
“CẨM NANG CHÂM CỨU”
danh THƯỢNG TRÚC,
080.Gắng học siêng hành, chẳng chịu ngu.
Đỗ Tất Lợi hàng Giáo
sư Tiến sĩ:
“Những cây thuốc và
vị thuốc Việt Nam ”(32)
Ai vận dụng nhiều
diệu phương huyền bí,
084.Hiểu rành thông lý thuyết, giỏi tay
làm?
Ai khinh ta dốt?
khinh sao được!
Quí “công ba lượng,
của ba đồng”
Tàu chuộng “Hoa Đà”
mê “Biển thước”
088.Ta ơn Tuệ Tĩnh trọng Lãn Ông…
Thuốc cứu thần thông
đa dụng nhất,
Cải tử hoàn sinh
thập cấp kỳ,(35)
Đuổi rắn rết độc đều “chạy mất”!(36)
092.Bại tê, thổ tả cũng bay đi.! (37)
Sài đất tiêu độc trừ
mụn nhọt,(38)
Thài lài: xào dấm
chữa “đau tim”.(39)
Chua lẻ,lọc máu, xào
nấu ngọt,(40)
096.Trị đờm, trừ suyễn: hạt Bìm Bìm.(41)
Củ gừng củ nghệ yên
bao tử,(42)
Phù chân mau khỏi cỏ
bong bong,(43)
U phổi tìm Hoàng
cung Trinh nữ,(44)
096.Kém ăn, khó ngủ uống Lưỡi – đòng.(45)
Rau má: giải độc gan
nhuận,mát, (46)
Nhức đầu, thanh
nhiệt thảo quyết minh,(47)
Tỏi một với đào nhân
nửa hạt:
100.Sốt rét thần phương, tự cứu mình!(48)
Ai nói ăn tàu bay
hay sốt?
Nào biết diệu năng
món rau này?(49)
Chất độc mỹ rải muôn
cây chết,
104.Mọc liền “Kháng Nhiễm Dược” tàu bay!(50)
Mất ngủ, phong thấp
dung trinh nữ, (51)
Đậu xanh giải độc
thật đáng công, (52)
Bán hạ cứu sống
người tự tử, (53)
108.Di tinh huyết bạch uống tơ hồng. (54)
Lá duối chữa mẹo tan
sưng vú (55)
Hương phụ là tiên
dược nữ nhân, (56)
Khó đẻ tìm trái non
đu đủ, (57)
112.Sinh xong cần ích mẫu nhân trần.
Ăn lá sung non cho
nhiều sữa,
Vỏ trừ phong thấp
khỏi đau lâu,
Ghẻ lở đinh nhọt nên
dung nhựa,
116.Đắp huyệt thái dương chữa nhức đầu. (59)
Trăm ngàn phương
dược sao kể hết,
Ai “học như biển,
dụng như châm”? (60)
Giành lại mạng người
từ thần chết,
120.Thuốc Đại-Tùng-Lâm, dụng tay cầm! (61)
Phép chữa bệnh cũng
rất cần châm cứu,
Thuốc Mĩ, Tây nhiều
khi bó tay,
Tê, bại liệt, miệng
méo, la ngọng nghịu ,
124.Cứu chữa nhanh không phải khổ lâu
ngày. (62)
Khi châm cứu án
huyệt cho chính xác,
Những huyệt nào cần
cứu, huyệt nào châm?
Hiểu thật rõ từng
đường kinh, huyệt, lạc,
128.LUẬT ÂM –DƯƠNG bổ tả khỏi sai lầm. (63)
TRUYỀN NHÂN ĐIÊN với
môn BẤM HUYỆT,
Hỗ trợ vào điều trị
càng hay
Biển khổ tram luân
ai tả xiết,
132.Cứu sao hết bệnh thế gian này?
Hoài sơn khó cứu
người “vận-khứ”,
Củ khoai cải tử kẻ
“thời - lai”
Chẳng gây nghiệp ác
đều vô sự,
136.Bệnh tật cần chi luận rông dài! (66)
Chữa bệnh cứu người
không đơn giản,
Trị phần thân bệnh
giảm tiêu nhanh,
Ai mang bệnh nghiệp?(67a)
Ai đại hạn? (67b)
140.Phương chi cứu phạm luật ngũ hành,(68)
140.Phương chi cứu phạm luật ngũ hành,(68)
Trúng tuổi kim lâu đâu
dễ chữa ? (69)
Phạm «cung tuyệt
mạng » sửa làm sao ?
Cớ chi sinh nữ không
nam tử ?(71)
144.Vô sinh tuyệt tự chữa thế nào?(73)
Chồng khổ nạn thử
đức tâm người vợ?
Vợ nguy nan do tâm
địa người chồng?
Ai nhận thấy vợ
chồng là oan nợ?
148.Nguyện cùng TU GIẢI-THOÁT có hay
không?
Bệnh khó TIN SÂU còn
cứu được, (74)
Nghi ngờ bất tín
thật vô phương,
Dù rước Hoa Đà cầu
Biển Thước,
152.Hải thượng, Tiên Ông cũng bí đường!
Thật cao quí lương y
như từ mẫu,
Thương bệnh nhân như
thương chính thân mình,
Ghê sợ quá “tham y
như hổ gấu”
156.Bài “đầu tiên” dạy “đền đáp ân tình”
“hữu thỉnh hữu lai”
“cầu tất ứng”
“Bất cầu,” “vô
thỉnh” độ làm sao?
Thuốc thang ngại
uống không tin tưởng,
160.Thánh y cũng đành bó tay chào.
Thương mến sơn cước
gian khổ quá!
Giúp người mau ấm áo
no cơm.
Ai độ được kẻ lòng
chim dạ cá,
164.Muốn được mình liền bẻ ná, phá
nơm?!...
Xót người không biết
không cầu học,
Chưa thông không
chịu học cho thông?(77)
Nảy sinh tà kiến bày
moi móc…
168.Tội xây thành núi, phước đổ song!...
(78)
Kẻ tà kiến biến
thành “sư tử”
Ai nhập bầy với kẻ
phá đạo kia?(79b)
Chẳng phân tà chính,
không lành dữ?
172.Ai biết ác ma qua xa lìa? (80)
Việc hay không biết
xoay thành dở
Điều xấu lầm mê trở
thành hay ?!
Hủy báng TAM BẢO không
biết sợ,
176.Nghiệp chướng chẳng vơi kết thêm dày,..(81)
Huynh đệ hộ pháp không
tán thán,
Buồn chê, phiền trách
muốn cản ngăn ?
Cùng « sư tử trùng
» làm bè bạn, (82)
180.Kết làm quyến thuộc chúa Ba Tuần. (83)
PHẬT thường cứu độ, Ma
cản phá,
Nơi nào có PHẬT cũng có
Ma,
Chẳng tin tội phước
không nhân quả ?
184.Đọa lạc triền miên chẳng ngán à ?!
Ai cúng TAM BẢO như đổi
chác,
Độc quền giữ THẦY của
riêng mình ?
Muốn chẳng toại tâm
liền khắc bạc,
188.Mặt làm ra trọng, giọng buồn khinh!
Điều thiện ác trắng đen đang sàng lọc,
Cảnh Dở-HAY, TRONG-Đục chẳng lầm
đâu !
Người xưa bảo « nắm đầu người có
tóc »,
192.Ai rẻ khinh
« tìm túm sư trọc đầu» ?! (84)
Hội thi kỳ này nghiêm túc quá,
Thi cả người TU cả người đời,(85)
Nợ oan nhiều kiếp vay phải trả !
196.Sáng biển luân hồi
vạn trùng khơi !...(86)
Người thiện đức làm lành ít quá,
Cộng nghiệp ác tham nghịch ý
TRỜI !
« Tai biến dập dồn bao cảnh chết,
200.Núi xương sông máu
thảm đầy vơi »(87)
CƠ TRỜI thanh lọc đời THẬT-Giả
Tốt lành tồn tại, xấu diệt vong !(88)
Ai trốn khỏi « LUẬT TRẢ VAY NHÂN
QUẢ » ?
204.Vay một đồng phải
« trả lãi » ngàn đồng !(89)
Cứu bệnh tật tầm học thông Y-DƯỢC,
Cầu ở yên nghiên ĐỊA LÝ- HUYỀN CƠ.
Nhớ ĐẠT MA,NGUYỄN DU chưa quên được,
208.Ngán luân hồi
THIỀN, MẬT, TỊNH ..đồng TU.
Bản thân lắm bệnh sâu nghiệp chướng,
Học thuốc tìm TU tự cứu mình !
Xót khổ chúng sinh nhiều vô lượng,
212.Dày công cầu TU HỌC
NGŨ MINH.(90)
Ai chưa đắc QUYẾT HỌC HÀNH chứng đắc,
Ai chưa thông QUYẾT RÈN LUYỆN tinh
thông,(91)
Ai chậm tối ngây khờ như BÀN ĐẶC,
216.THẬT QUYẾT TU đạo
quả cũng thành công.(92)
Ai giúp mình trở sinh lòng bất
mãn ?
Dáng
buồn thay ? hay tội nghiệp đáng thương ?
Ai khéo « học thầy không tầy học
bạn» ?
220.Người đi sau ơn
người trước chỉ đường !(93)
Ai tự thấy « thua kém thầy một vạn,
Không hổ bằng kém bạn một
ly. » ?(94)
Người tài đức phải tinh thoonh dày dạn,
224.Rồng gặp mây, đại
hạnh ngộ diệu kỳ.
(Ai tự thấy « thua kém thầy một vạn,
Không hổ bằng kém bạn một ly. »
Người thuyền trưởng trải phong ba dày
dạn
228.Phước duyên sơ đành
lằng lặng chào đi)
Ai lắm lúc nghiêm khắc kêu « khó
quá »,
Ai nhiều khi dễ dãi quá « sinh
nhờn » ? (95)
Ai tới trước, chẳng thay lòng đổi
dạ ?
232.Ai về sau càng thấy
tôt đẹp hơn ?(96)
Ai chữa bệnh cứu giải trừ tận gốc,
Không dở dang dối gạt chữa cầu
may ?(97)
Ai bệnh khó đòi khỏi liền một
chốc ?
240.Ai nghiệp sâu muốn
tiêu gấp đôi ngày ?(98)
Ai mê ngủ tìm chê người thức tỉnh ?
Kẻ không tin biết cứu độ làm sao ?(99)
Ai nghiên cứu hợp nhiều môn chữa bệnh,
244.Chẳng chấp nê khinh
rẻ Pháp môn nào ?!(100)
Ai chữa bệnh khéo dùng khoa THỰC DƯỠNG,
Nhờ OSAWA ĐIỀU CHỈNH ÂM DƯƠNG,(101)
Cơm gạo lứt muối mè môn tối thượng,
248.Ở trần gian
thanh thản tựa thiên đường !(102)
Kiếp xưa sát mạng, nay đòi mạng?
Cải tử hoàn sinh quí vô cùng!
Sao thành họa “trùng tang lien táng”?
252.Phép chi cứu đại
nạn “chết trùng”?(103)
Giải nghiệp nặng phải LẬP ĐÀN SÁM HỐI,(104)
Siêng TU TRÌ TRỪ CÁI CHƯỚNG CHÂN NGÔN,(105)
Mùa báo hiếu VU-LAN tiêu giải tội,
256.Mời TỐ NHƯ cùng
cúng thì cô hồn.(106)
Gieo trồng lam sao sâu khỏi phá,
Chuột bo thú rừng cũng tránh đi,
Hoa thơm, linh dược, cây trĩu quả…
260.Khéo THỰC HÀNH
PHÁP CHÚ ĐẠI BI!(107)
KHỔNG – MINH đại thắng miền XÍCH BÍCH,
Bởi biết lập đàn rước gió đông.(108)
Quốc Thái dân oan, tan ôn dịch:
264.Khéo LẬP ĐÀN
HÀNH PHÁP MẬT TÔNG(109)
Cứu nghèo khó dụng PHÁP CẦU TÀI BẢO,(110)
Trừ ngu si: trì TĂNG TUỆ CHÂN NGÔN,(111)
Tiêu nghiệp chướng, hóa giải muôn khổ
não
268.Ai khéo dùng
trong ngàn vạn Pháp môn?
Ai khéo “dụng NHÂN như dụng MỘC”(112)
Ai biết “Dụng Y như dụng BINH”(113)
Dứt trừ nghiệp sát, tham, ác độc,
272.Thế giới đẹp vui
cảnh thái bình!(114)
PHẬT PHÁP – DƯỠNG SĨNH, Y…NHÂN ĐIỂN,
HUYỀN CƠ CHẤM – CỨU, DƯỢC…hay thay!
BẢY MŨI GIÁP CÔNG dàn trận tuyến!(115)
276.Bệnh ma tật quỉ
cũng tan bay,(116)
Chưa hiểu biết, NGƯỜI chỉ cho hiểu biết,
Được “BẢO CHÂU” chẳng quí trọng “BẢO
CHÂU”?
Ai
để mất rồi mới than hối tiếc?
280.Được duyên may,
sao chẳng quí tư đầu?!(117)
Kẻ bạc phước chẳng hay mình bạc phước?
Người vô duyên nào biết tự vô duyên?
Kẻ bạc phước “điều tốt không thấy được,”
284.Người vô duyên
“Tâm ý đổi thay liền”!
Ai bảo rằng “Họa vô đơn chí”?
Ai biết ràng “Phúc bất trùng lai”?(118)
Ai khéo cúng dường, vui xả thí?
288.Tìm đâu bậc
HIỀN-TRÍ TÀI-NHÂN?!...
Thương xứ khổ PHẬT cho người cứu khổ,
Chẳng biết ơn trở hờn giận rẻ khinh?
Kẻ kêu khổ trách chê người cứu độ,
292.Đáng trách người
hay phải tự trách mình?(119)
TẢ AO bảo “ĐỊA LINH SINH NHÂN KIỆT”
Nơi “ÂM DƯƠNG SUNG MÃN PHÁT NHÂN TÀI”(120)
“TIÊN TÍCH ĐỨC, HẬU TẦM LONG” khéo biết,
296.Trăm ngàn lần
đều ứng nghiêm không sai?(121)
Dương khí ngưng cao, âm tụ thấp,
Nghiên tầm đỉnh núi khúc sông sâu…
Ai biết được “MẠNG DO NGÃ LẬP”?
300.Ai hiểu rằng
“PHƯỚC TỰ KỶ CẦU”?(122)
Ai gian bớt (123a) vít đầu người làm
sướng?(123b)
Ai
biết rằng “CHÙA LÀ BÙA CỦA LÀNG”?(124)
Dân phú quốc cương an khương thịnh
vượng,(125)
304.Chùa hưng sung
xứ sở phước lộc tăng!(126)
Bốn điều cần yếu khoa PHONG THỦY :
ÂN-TÌNH-NGHIA-LỤY mới giúp thôi!
Thế gian lắm chuyện “hay” đấy nhỉ,
308.Cứu độ cho người
phải xin người?!
Quán xét kỹ nhân tình… xem thế thái..(127)
Duyên phước lành khiếm khuyết độ sao
nên?
Gieo giống lép chẳng đơm bong kết trái,
312.Không khéo TU
hưởng phước chẳng lâu bền!(128)
CẦU
ĐẠI PHƯỚC chẳng tầm thường quấy quá,
Không dễ dàng như kẻ lượm sung rơi!(129)
Được tiền bạc có nhiều khi mạng họa,
316.Học điều hay
phước đức hưởng muôn đời!(130)
Được hưởng phước thường thích ưa làm
phước,
Có thiện duyên càng vui kết thiện duyên,
VÔ DUYÊN PHƯỚC biết làm sao cứu được?
320.TÂM CHÍ THÀNH là
LINH-DƯỢC THÁNH-TIÊN!
Được phước báu phải giữ gìn phước báu,
Kẻ ngu si hèn nhát đáng được không?
Chư BỒ TÁT xả thân cầu ĐẠI ĐẠO,
324.Nát thân dâng
cũng chẳng sánh tương đồng.(131)
Ai mượn tiếng hộ trì ngôi TAM BẢO,
Thôi chỉ lo danh lợi của riêng mình?
Không biết tội?
Chẳng sợ mang khổ báo?
328.Đọa tam đồ trăm
ngàn kiếp u minh!
Làm việc TAM BẢO ai than mệt?
Nhân lành quả phước được bao nhiêu?
Hiến thân HỘ PHÁP muôn ngàn kiếp,
332.Nào dám xưng hô
phước đức nhiều!(132)
Chí thành TAM BẢO GIA ÂN PHƯỚC,
Ác nhân cản phá hưởng được không?
Quyết giữ không kẻ nào phá được!
336.Già trẻ gái trai
QUYẾT MỘT LÒNG.
Thương người thiển cận nhìn một chỗ,
Xót kẻ đui mù đứng sờ voi!(134)
Trong “NAM ” khinh “BẮC”? “TÂN” chê “CỔ”?
340.Tưởng như quảng
đại lại hẹp hòi.
Ai khát cháy cổ mới đi đào giếng?
Trăng quầng to…đại hạn… đợi còn lâu!...
Bệnh nguy cấp chờ thuốc dâng tới miệng?
344.Ỷ cao sang lương
dược chẳng tìm cầu.(135)
Bệnh nghiệp trần gian ai biết được?
X quang chiếu chụp thấy điều chi?
Định nghiệp khó cứu trong muôn một.
348.Chẳng tin TAM
BẢO… dễ mong gì?(137)
Bệnh nghiệp nặng: cắt mổ sao cho hết?
Xét suy lầm chẳng hóa giết oan nhau?
Quá mòn mỏi…tiền hết!.. người vẫn chết!
352.Mất mạng rồi
thần thức biết về đâu?
Đồng ngưỡng mộ cầu thuốc hay thầy giỏi,
Hợp âm trần cứu trị giải trừ nhanh,
Kẻ nghèo khổ bệnh nguy còn dễ khỏi,
360.Người cao sang,
quyền quý khó chữa lành!..
Khắp vũ trụ ngàn vạn điều linh diệu,
Còn muôn phần cần yếu phải nghiên
tầm?...
Tự
bưng bít, chẳng biết mình kém thiếu?
364.Vừa mở mồm liền
kết luận “duy tâm”
ÁC SI MÉT (139a)+NƯU TƠN (139b)
về chứng kiến :
Hai đường song song muốn gặp nhau?
Mời BRAONO “kẻ một đường cát tuyến”
368.“DUY VẬT”+ “DUY
TÂM” nối nhịp cầu.(140)
Khổ công TU-HỌC thông vài việc,
Nói ra hay để chết mang đi?
AI TIN TÌM BIẾT? AI CÙNG BIẾT?
372.Xét xem nói thật
được ích gì?
Miệng câm tai điếc thà chẳng biết?
Nói để ai nghe, viết làm chi?
Tri âm tấu khúc “Sầu ly biệt”…
376.Quăng đàn!...BÁ
NHA nhớ TỬ KỲ!(141)
“Thư muốn viết đắn đo chẳng viết,”
TAM NGUYÊN buồn tạm biệt DƯƠNG KHUÊ…(142)
Kẻ tàn bạo tìm nhân tài trừ diệt?
380.“Án quả đất
quay”lăn lóc…khóc GALILE!(143)
Ai “bất minh” ai chẳng “đầu tha quốc”?
Ai “bất từ” ai chẳng muốn “tha phương”?(144)
TÀO THÁO đãi HOA ĐÀ trong… đại ngục!...
384.Phận tôi
trungcam nhận kiếp đoạn trường?!...(145)
DÃ TRÀNG vẫn bền gan xe cát mãi? (146)
NGU CÔNG còn dời núi chẳng tiếc công? (147)
“ÁN LỆ CHI VIÊN”…oán truyền NGUYỄN TRÃI
388.Giết hết rồi oán
kết giải được không?(148)
Lắm kẻ ác tham, đông xảo trá,
Tóc tang oan khuất hóa đen trời!
Ai bảo nước trong không có cá,
372.HIỀN NHÂN thật
khó có ban chơi?!(149)
Ai hiểu được “quan nhất thời” quyền thế?
Ai biết rằng “Dân vạn đại” nghĩa nhân? (150)
Đắc nhân tâm lưu truyền muôn thế hệ,
376.Thất nhân tâm-
khó lừa gạt nhiều lần!(151)
Kẻ ngay hay bị người đổ lỗi?
Tiểu nhân gian dối được tâng công!
Trung thần nghĩa sỹ đem kết tội?
380.Bắt phải chịu
thôi! Thật chẳng thông!
Phản dân hại nước không ngán sợ?
Tham ô…hối lộ… với thông đồng…(152)
“Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”!
384.Kẻ “Phá đê” nghiêm
trị hay không?
Người oan mong được BAO CÔNG xử?
Khắc khoải đêm ngày đợi… chờ… trông…
TRIỂN CHIÊU, TRIỆU HỔ… tìm đâu nữa?...
388.Để thế gian này
lắm bất công! (154)
Lũ ba phải “rắn” bảo “rồng” cũng gật?
“Hổ mang hoa” hô “trăn đất ”cũng ừ?
NGƯỜI CHÂN CHÍNH trước sau đều “nhất
nhất”
392.Ngán kẻ “Khi
quan tám …lúc quan tư…”(155)
THIỆN-TRI-THỨC hơn cả bầy La Sát,(156)
Ai “Quí hồ tinh, bất quí hồ đa”? (157)
NGƯỜI DŨNG SỸ hơn ngàn binh đào nhát,
396.Hiếm HIỀN NHÂN,
nhiều tham ác gian tà! (158)
Nghe chuyện các loài Cò và loài Cốc,
Bầy Cốc “mò” để các cụ Cò “xơi”!
Ôi công cốc! mãi dại khờ ngu ngốc?
400.Mò hoài công!...
Vươn dài cổ kêu Trời!
Chẳng muốn thấy cảnh “nồi da xáo thịt”
Không nỡ nhìn “huynh đệ triệt hại nhau!”
Muôn sức mạnh bởi YÊU THƯƠNG ĐOÀN KẾT.
404.Ôi “cốt nhục
tương tàn”! … mãi khổ đau!...
Ma quỷ muốn “Diệt hết dòng họ Rết”!
Bày mưu cho “Rết tìm diệt trừ nhau”!
Trúng quỉ kế “ Tự chặt chân kụt hết”!
408.Chẳng còn chân!
Rết làm được gì đâu!...
Sách “tự diệt ” thật vô cùng khốc liệt!
Hồng vệ binh…khơ me đỏ…đập đầu!...
Ôi đau xót!... “tự chặt chân mau chết”
412.Hết chân
rồi!...Rết sống được bao lâu?
Này quỉ quái Ta bảo cho ngươi biết:
Ngươi muốn dòng họ Rết diệt trừ nhau?
Khiến diệt hết ta lại thêm đoàn kết!
416.Chẳng dại khờ
trúng quỉ kế ngươi đâu!
Ai cực khổ mới tìm cầu TAM BẢO?
Ai khi cần lỄ PHẬT, lúc theo ma?
Kẻ
giả dối hay hẹn huyền hứa hão,
420.Ai mượn danh TAM
BẢO tạo nghiệp tà?!
La sát suy bung ta ra kẻ khác,
Tưởng răng ai cũng quỉ quyệt như
mình ?!(159)
Người hiền đức khác hẳn phường tham ác,
424.Quí đẹp thay THẦY
HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH !(160)
NHÃN QUANG thấy DẠ MINH CHÂU trong đá,
Mắc bệnh chi nhìn bạn hóa ra thù ?
Deo « đảo kính » thấy nhiều
điều quái lạ,
428.Tội và công Đảo-Lộn
họa thiên thu ?!
Ai đeo mãi kính cũ mờ đen kịt,
Nhìn chỗ nào cũng xám xịt tối
thui !
Thấy trời đất nổi phong ba mù mịt,
432.Bảo « tiến
lên » lại nghe nói « thụt lùi » ?!...
Ai luôn bị dập vùi trong chướng nạn,
Quyết vươn lên làm lợi ích cho
đời ?
Người xảo trá thường dối thầy lừa bạn,
436.Dùng mưu gian tạo
danh vị ngồi «xơi » !...
RÈN GƯƠM BÁU không thể dùng sắt rỉ,
Phải luyện bằngTHÉP LUYỆN ĐÚC TINH
CHUYÊN.
Kẻ hèn dốt không thể thành ĐẠI SĨ !(161)
440.BẬC TRƯỢNG PHU VÌ
NGHĨA xả thân liền !(162)
Thuyền độc mộc sao chở trăm kẻ
tội ?
Ai nhờ đưa vừa cưa…đục…phá thuyền ?
Kẻ gian ác chờ « Diêm vương »
cứu nổi ?
444.Há mồm to đợi thuốc
Thánh Thần Tiên !
Nhớ lão tướng kiên cường KU-TU-DỐP…(163)
Hào hùng thay TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI
VƯƠNG !
Giao thống lĩnh một đoàn quân ô hợp,
448.Dùng phép chi thắng
giặc khắp chiến trường.(164)
Kẻ cầu phú quí thường phù thịnh,
Ai tìm cứu khổ nguyện độ suy ?
Ngược thay mê ngủ chê người tỉnh !
452.Thôi đành để bụng
chết mang đi !
TRẠNG TRÌNH thấy « đời như bọt
nước » !
BẠCH VÂN nhìn «…thế…tựa chiêm
bao » !
Biết vậy vì sao chưa thoát được ?
456.Làm ĐẠI TIÊN ÔNG
tới kiếp nào ?(165)
Chẳng ưa TU PHƯỚC ? không HÀNH
THIỆN ?
Dãi đằng đưa đón cũng « chào »
thôi !
THẬP KIẾP BI NGUYỆN vui TRÒN-NGUYỆN,
460.Cánh nhạn tung bay
vút chân trời!
Nơi nào được làm nơi
« AN-THẤT »
Duyên lành phước đức thật vô biên!(166)
Dùng pháp ngũ minh ơn ĐỨC PHẬT,
464.Chuyển khổ thành
vui ứng hiện tiền!(167)
Thiên thời địa lợi cùng nhân sự…
Nơi này thông chiếu thấu muôn nơi,
Xử thất nhân tâm anh tài “khứ”!
468.Sao
ĐẮC-NHÂN-TÂM… khế CƠ-TRỜI!
Huynh thăm chốn TỔ nơi phương BẮC,
Đệ viếng quê CHA ở miền NAM,
Khắp nơi khắp chốn đều TU ĐỨC,
472.Thái bình an lạc
mãi muôn năm!(168)
Ai vùng KINH-BẮC ai HÀ NỘI,
SÀI GÒN BÀ-RỊA với LÂM-ĐỒNG,
BÌNH THUẬN, BUÔN MÊ…kinh tế mới
476.Đông- Tây , Nam -Bắc
… mọi đường thông!
Nhớ lang xưa CỔ PHÁP nay ĐÌNH-BẢNG,
Đất
ngàn năm văn vật BÁT LÝ VƯƠNG,
PHẬT ĐẠO Tiên đế trọng, ai hủy báng?
480.Nên hợp muôn
lòng xây dựng quê hương.(169)
LÝ TRIỀU ma quỷ thường quấy rối,
Phù thủy Đại-Điên biến hóa thông?...
Bình Chiêm, phạt Tống, trừ ma nội,
484.Ơn TỪ-ĐẠO-HẠNH
KHÔNG-MINH-KHÔNG!(170)
Thời mạt pháp ai làm TÔN-HÀNH-GIẢ,
Trừ Tà, Ma, Quỷ quái diệt Yêu tinh?
Đời ngũ dục đảo điên đầy gian trá,
488.Ai ưng làm
TRƯ-BÁT-GIỚI đa tình?!(171)
YÊN TỬ, CHÙA HƯƠNG mùa trấy hội,
Con hiếu nào không nhớ cố hương?
Kẻ tha hương tìm về nguồn cội,
492.Kíp đi nhanh
thẳng hướng chung đường!
Đời ta ai hiểu hơn ta được?
Ai thương mình hơn tự chính mình ?
Xót đời ác thế năm món trược,
496.Gắng độ người THOÁT
nẻo U MINH !(172)
Vui biết mấy trụ trì LƯU LINH TỰ !
Từ TÂY-NINH, BÌNH-ĐỊNH… tới SÔNG HỒNG,
Tận tâm cứu kẻ « nhất sinh thập
tử »,
500.Ai thương người hơn
HÀNH GIẢ MẬT TÔNG !(173)
Đất lát vàng, cây quí dâng cúng PHẬT,
NGUYỆN
HỘ-TRÌ PHẬT-PHÁP mãi xương minh,
ĐẠI-PHƯỚC-ĐIỀN TAM-BẢO vi diệu nhất,
504.Thỉnh cầu TAM-BẢO
cửu trụ xứ mình !(174)
Sống trần tục mãi điêu linh đọa lạc,
Đời thanh cao hồn giải thoát siêu thăng.
Ôi tội nghiệp lũ Ó, Diều, Cò, Vạc !
508.Quí đẹp sao tầm vóc
CÁNH CHIM BẰNG !...
Nhập thế cứu người THÀNH ĐẠO CẢ,
Ai tri ân HÀNH GIẢ MẬT TÔNG ?
TỪ-BI-TRÍ-DŨNG cùng HỶ-XẢ,
512.« Nhuc-Vinh »,
« Đắc-Thất »…cũng tương đồng !(175)
Ôi gian thế đảo điên không chân
thật !
Xót thân KIỀU chồng chất gánh tang
thương !...
Tố như dẫn THÚY KIỀU về theo PHẬT,
(BỒ TÁT TỐ NHƯ dắt KIỀU theo PHẬT)
516.Thoát sông mê dồn
dập sóng Tiền Đường !
Chẳng thích ở chốn phố phường đô thị,
Không ưng gần nơi địa vị giàu sang,
Chẳng ham muốn món cao lương mỹ vị,
520.Không mừng khen đồ
xa xỉ bạc vàng !
Chẳng danh, không lợi, không quyền kế,
Chẳng vào không đến cũng không đi !
Ai bảo « học nhiều, làm nhiều
thế »…
524.Đáp : « Bần
Tăng này chẳng làm chi » !
Chẳng phiền không ngại không quyền tới,
Thương người cực khổ tới nơi này.
Ai đưa, ai đón, ai trông đợi ?
528.Thẳng hướng TÂY
PHƯƠNG nhẹ cánh bay !
Với nhan đề
« Phước duyên miền An Thạch » 300 câu
Từ ngày 11 tới ngày 24
tháng 11 năm Mậu dần(1998)
Chuyển thành
« Phước duyên miền An Thạch
Thông mạch khắp muôn
nơi» 440 câu
Tới ngày 29 tháng 2
năm Kỷ mão (1999);
Tới rằm tháng 4 năm
Kỷ mão (1999) là 528 câu.
Sa môn: THÍCH-QUẢNG-ĐỊNH Cảm tác.
CHÚ THÍCH: Gồm
175 mục.
(1) – Bài thơ có
nha đề : “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI” nguyên nhan đề Bài thơ lúc đầu là “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN-THẠCH ??? ” nghe có
vẻ bí ẩn, nên nhiều người hỏi Hành Giả:
- Lý do vì sao
bài thơ có tên khác thường với ba dấu chấm hỏi đi tiếp liền sau như vậy?
Xin nói rõ căn
nguyên như thế này:
- Quán xét kỹ:
Thấy rõ phần phước đức và nhân duyên của vùng này còn khiếm khuyết quá nhiều
nên phải đặt ba dấu chấm hỏi (???) như vậy. Sau này nếu có nhiều người ham TU
Phước, vui hành thiện, thì xóa dần một dấu chấm hỏi, sẽ được hưởng một phần
phước đức. Thời gian sau đó lại ham TU Phước, vui hành thiện, hơn nữa thì xóa
một dấu chấm hỏi thứ hai đi, thì sẽ được hưởng một phần phước đức, khi nào đông
người vui thích ham TU Phước, vui hành thiện, thì xóa luôn cả ba dấu chấm hỏi,
là phần duyên phước được hưởng sung mãn tròn đầy!…
Trong suốt thời gian chịu ảnh hưởng
mưa, lụt, bão của cơn bão số 7 từ tháng 10 đến hết tháng 11 năm Mậu Dần (1998)
Sau khi:
“ Quán sát kỹ nhân tình… xem thế thái
Duyên phước lành khiếm khuyết
độ soa nên ?
Gieo giống lép chẳng đơm bong
kết trái,
Không khéo TU, hưởng phước
chẳng lâu bền!”
Lại đối chiếu
với “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN” trong phẩm “Minh Sư Khẩu quyết ” Đức PHẬT có
dạy:
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là Minh
sư khẩu thuyết?
Đức Phật nói: “Khi Như Lai diệt độ rồi
có dậy các vị Bồ-Tát truyền Phật tâm ấn tiếp nối huệ mạng của Phật , mỗi vị
giáo hóa mỗi phương, dẫn dắt những người chưa ngộ. Nếu chúng sanh nào có nhân
duyên, đặng nhân quả chơn chánh, chánh kiến, chánh tu, hàng phục tà ma ngoại
đạo, phá trừ tà kiến, tu công hạnh chánh, trước sau trong sạch, biết người
chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng truyền, nếu có thiện
nam, tín nữ chơn chất, trí tuệ sáng suốt hết sức tầm cầu đạo giải thoát, thường
thường thân cận cúng dàng lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy với trò được
biết với nhau rồi, chừng đó mới lấy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo. Tâm truyền
cho tâm in như các vị tổ trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt. Đây tên là
Minh-Sư Khẩu-Thuyết , nếu người có duyên gặp đặng, không luận căn lớn hay nhỏ
cũng thành đạo Phật”
Đức Phật đặc biệt căn dặn các Phật tử TU HẠNH BỒ TÁT khi
cứu độ chúng sinh phải quán xét thật kỹ: “…biết người chẳng có căn lành chẳng
độ, người không phước đức chẳng truyền, nếu có thiện nam, tín nữ chơn chất, trí
tuệ sáng suốt hết sức tầm cầu đạo giải thoát, thường thường thân cận cúng dàng
lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy với trò được biết với nhau rồi, chừng
đó mới lấy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo. Tâm truyền cho tâm in như các vị tổ
trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt.
Có người phát tâm xin cúng phần đất gia đình mình đã khai
phá để cung thỉnh hành giả làm TỊNH THẤT lưu trụ TU TRÌ và cứu độ chúng sinh ở
xử này… như gia đình chú hai Học, gia đình Bác Hai Long, gia đình chú Hai
Phụng, là cán bộ tập kết ra Bắc nay về hưu, và chú Ba Thắng Phó ban công an xã
TÚ AN, Huyện An Khê, Tỉnh Gia Lai….xin cúng cả ha đất bên bờ suối sát đường.
Nói là
“cúng” nhưng xét cho kỹ thì đều có tính cách như đổi chác… vì biết Hành Giả đã
dung nhiều phương tiện cứu giải nhiều bệnh tật nan y nguy cấp, nghiệp chướng
khổ não như “trùng tang liền táng” các việc làm nhà “phạm cung tuyệt mạng” như
phạm “Tuổi Kim lâu” v.v. để cuộc sống phải chịu nhiều khổ sở nghiệp chướng cho
đệ tử ở các nơi như SÀI GÒN. BÀ RỊA VŨNG TÀU, LÂM ĐỒNG, BÌNH THUẬN, BÌNH ĐỊNH,
BUÔN MÊ THUỘT. MIỀN BẮC…Và muốn sở hữu “Ông Thầy” chỉ muốn cứu chữa riêng cho
Gia đình nhà mình mà thôi!
“Ai cúng
TAM BẢO như đổi chác
Độc quyền giữ Thầy của riêng mình
Muốn chẳng toại Tâm liền khắc bạc,
Mặt làm ra trọng dạ buồn khinh! ”
Hành Giả xét thấy tâm ý của nhiều người không phải thật
tâm cúng đất để mong cầu lợi ích chung cho nhân dân địa phương, thực ra chỉ
mạng tính cách “trao đổi hai chiều”…có một số người vì không hiểu đã chịu thỉnh
hỏi cho thông suốt tỏ rõ lại nảy sinh tà kiến bày đặt, dựng chuyện moi móc,
ngang ngược…nhiều người khuyên giải cho thấy điều hay lẽ phải mà họ cố ý không
nghe theo điều tốt, cho nên HÀNH-GIẢ quyết định không lưu trụ lại nơi này nữa!
Đêm trước
khi rời khỏi thôn AN-THẠCH chú Ba Thắng Phó ban công an xã TÚ AN, đã tha thiết
cung thỉnh HÀNH-GIẢ lưu trú lại nơi đây để cứu độ cho nhân dân vùng cao nguyên
hẻo lánh xa Thầy thiếu thuốc này. Rất nể lời cầu thỉnh của Bác Sáu Cơ là Chủ Tịch xã TÚ AN, chú Năm
Thạnh là Trưởng Ban Công An, chú Ba Thắng Phó ban công an xã TÚ AN, chú Bảy Tài
là Trưởng thôn…đều là những cán bộ được nhân dân tín nhiệm bầu ra. Đại diện cho
Dân để tìm những người tận tâm cứu giúp cho bà con địa phương mình bớt phần cực
khổ!…
HÀNH-GIẢ Rất cảm mến đáp lời với tấm lòng chân thành đó
là;
- “ Thấy sự nhiệt tình tận tâm của các Bác, các cô, các
chú là những người cán bộ thực sự lo lắng tìm mọi phương tiện giúp cho nhân dân
địa phương nhà được hết khổ an vui…Dây là những điều tâm nguyện rất quí, tôi sẽ
lưu tâm…nếu sau này có nhân duyên tôi sẽ trở lại “
Đầu tháng chạp năm Mậu Dần (1998) gia đình chú Sáu Khuất
ở xã JA-CHIM thuộc thị xã KON TUM, Tỉnh KON TUM lại cung thỉnh HÀNH GIẢ tới cứu
độ cho dân cư miền cao nguyên nhiều sắc tộcngười Thượng, trên một vùng đất rộng
mênh mông đủ các yếu tố:
“
Trồng thuốc cứu người, Hoa cúng PHẬT
Lương thực rau xanh hợp TU trì …
Bên bờ suối nước vừa có đất,
Rừng cây núi đa tiện đường đi. ”
Đứng trên một ngọn núi phóng tầm mắt bốn phương tám hướng
nhìn toàn thể đại cuộc là một MẠN ĐÀ LA khổng lồ núi non nhấp nhô trùng
điệp…tại chính cuộc như một chiếc ngai lớn, lưng tựa vào núi vững chắc, hai tay
ngai có phân chia tả thanh long hữu bạch hổ rõ rang. Hướng Tây chếch Tây Nam
10 độ phía trước nhìn thẳng xuống đập
nước IA LY lien tiếp chạy ra xa tận chân trời là những dãy núi trùng điệp tạo
thành một ĐẠI MẠN-ĐÀ-LA như có bàn tay kỳ diệu nào đó đã khéo làm nên kiệt
tác!...Đây là một thế đất rất quý phát về phần dương cơ của khoa PHONG THỦY.
-
Tả Thanh Long qui phục
-
Hữu Bạch Hổ Triều lai
-
Hậu sơn cao bao bọc
-
Tiền thủy thâm minh đài
Khí hậu của vùng
cao nguyên trên mực nước biển hơn 600 m này thật thoáng mát ôn hòa từ 180
– 280
Khi lạnh lắm mới
xuống 150 , nóng lắm mới lên tới 300 độ
Vợ chồng chú Sáu
Khuất, rất tha thiết ân cần tận tâm tận lực làm mọi thủ tục hành chính để thỉnh
rước HÀNH GIẢ về cứu độ cho xứ sở của mình. Ông chủ tịch xã JA CHIN là người
dân tộc Ê ĐÊ, khi tiếp chuyện thức Xoa-ma-na BỒ TÁT giới Thích Nữ Chân Ngọc tới
lien hệ các thủ tục giấy tờ Ông chủ tịch xã JA CHIN nguyên trước đây là một tín
đồ thiên chúa giáo rất vui vẻ nói:
-
Cô về thương với Thượng Tọa rằng: các
dân tộc vùng cao chúng tôi rất mong được đón Thượng Tọa cùng quí sư, các lương
y và các nhà hảo tâm tới cứu chữa bệnh, giúp đỡ cho đồng bào chúng tôi bớt cực
khổ…chúng tôi cảm ơn nhiều.
-
Thượng tọa giảng dạy cho chúng tôi rằng:
trong mười năm kháng chiến chống Mỹ
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”
Trước đây là
Thượng tọa là bộ đội chiến đấu ở chiến trường K ( Căm pu chia) và chiến trường
B2 (Nam Bộ). Năm 1969 có hành quân qua chiến trường B3(Tây Nguyên)…Hồi đó lúa
bắp các loại cây lương thực bị phi pháo và chất độc hóa học của Mỹ tàn phá gần
như bị hủy diệt thành một vành đai trắng. Đồng bào các dân tộc vùng Tây nguyên
vẫn bòn mót dành cho các chú bộ đội giải phóng quân từng gùi bắp gùi gạo tiếp
thêm sức mạnh để đánh thắng giặc Mỹ… còn đồng bào các buôn làng lại ăn củ mì và
đi đào củ rừng ăn trừ bữa… trông cho mau tới ngày giải phóng Miền Nam…
Thượng Tọa thường dạy cho chúng tôi
biết đồng bào các dân tộc vùng cao tuy nghèo khổ nhưng rất tốt bụng. Suốt 20
năm TU HÀNH Thượng Tọa không thích ở nơi phố thị rộn rang, chỉ vui ưa ở những nơi rừng núi để cứu giúp cho đồng bào
nghèo khổ…
- Ôi! Thượng Tọa
thương các dân tộc vùng cao như vậy… thật là người tốt bụng!…
*
* *
Đầu xuân kỷ mão (1999) các đệ tử vùng
Bắc Ninh, Hà Nội cầu thỉnh HÀNH-GIẢ ra cứu độ cho các đệ tử ở phương Bắc có
nhiều nhà TRí Thức nhà nghiên cứu khoa học khi được đọc thi phẩm “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN-THẠCH ??? ” với ba
dấu ??? đi tiếp theo có đặt vấn đề rằng: “ Những điều trong bài thơ chỉ dành
riêng cho miền AN THẠCH, xã TÚ AN, Huyện AN KHÊ, Tỉnh GIA LAI thì chúng sinh ở
khắp mọi nơi thì làm sao được hưởng ân phước cứu khổ ban vui của TAM BẢO?”
Nhạc sỹ Lê Thanh Bảo là chuyên viên
thuộc “Viện nghiên cứu tuyên truyền giáo dục nghệ thuật âm nhạc, văn hóa truyền
thống phục hưng” thuộc “ Viện âm nhạc Bộ Văn Hóa Thông Tin” Khi hiểu Phật Pháp
đã qui y TAM BẢO có Pháp danh là Thành Hưng.
Xin phát nguyện
TU HỌC dũng mạnh tinh tấn, trở thành một Phật tử thuần thành là Ưu Bà Tắc BỒ
TÁT GIỚI.
Thiện nữ Phạm Thị Bình tốt nghiệp
trường Đại học kinh tế thương mại khoa Kế toán năm 1986. Kế toán trưởng “nhà hàng
số 76 phố Hàng Trống liên hiệp các công ty ăn uống và dịch vụ Hà Nội” cùng với một số huynh đệ than thiết tìm về
qui y TAM BẢO. Phạm thị Bình có Pháp danh là: Giác An. Phát tâm xin lãnh thọ
giáo pháp đại thừa BỒ TÁT GIỚI tu BỒ TÁT HẠNH từ tháng 7 năm Mậu dần (1998) là
một phật tử thành tín ưu bà di Bồ Tát Giới.
Thiện nam Hồ Viết Thịnh là sinh viên
năm thứ ba trường Đại Học Bách Khoa khoa Điện tử viễn thông, đã cùng cả quyến
thuộc trong gia đình mình đều xin qui y TAM BẢO
Phát tâm xin
lãnh thọ giáo pháp đại thừa BỒ TÁT GIỚI tu học công hạnh ĐẠI THỪA từ tháng 7
năm Mậu dần (1998). Hồ Viết Thịnh Pháp danh là: Giác Thuyết.
Đôi ban đời là thiện nam Đinh Hữu Hối
và thiện nữ Bạch Thị Tha người mường miền núi Tản Viên hiên ngang và song Đà
hùng vĩ đều xin qui yTAM BẢO Phát tâm xin thọ trì Phật pháp là Phật tử thành
tín Ưu Bà Tắc Ngũ giới.
-
Đinh Hữu Hối Pháp danh Thành Đạt Ưu Bà
Tắc Ngũ giới
-
Bạch Thị Tha Pháp danh Diệu Thành.
*
* *
Tất
cả những Phật tử đó khi được về qui y TAM BẢO và khi được thọ trì giáo pháp đại
thừa của ĐỨC PHẬT đều tán than rằng:
Chỉ có những Phật tử chân chính thọ trì
được giáo pháp của Phật. Phát tâm dũng mạnh tinh tấn TU HỌC ĐẠI THỪA BỒ TÁT
HẠNH; Tự độ -Độ Tha Tự Giác – Giác Tha mới thật sự cứu mình và cứu người thoát
khỏi biển khổ sinh tử luân hồi. Vừa làm người Lữ khách đồng thời mỗi người đều
phát nguyện làm thủy thủ chắc tay chèo. Theo sát vị THUYỀN TRƯỞNG dày dạn kiên
cường luôn cầm chắc tay lái chiếc THUYỀN BÁT NHÃ tránh khỏi đá ngầm và những
dòng nước xoáy. Lướt qua mọi phong ba bão táp chuyên chở vô lượng hữu tình có
duyên vượt trung dương sinh tử cặp bến bờ GIẢI THOÁT.
“ Băng ghềnh thác thuyền lướt về bên giác
Thắng Ma quân nguyện QUYẾT
THOÁT dòng mê!
Đưa chúng sinh qua biển khổ
NGUYỆN THỀ!
Niệm cứu khổ: NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Nguyện chúng sinh phát tâm
TU-GIẢI-THOÁT
Lạy TỪ PHỤ TÂY PHƯƠNG đồng tháp
cánh bay về ! ”
(Trích trong bài “ NGƯỜI TU-GIẢI-THOÁT ”)
Các
phật tử xuất gia và các Phật tử tại gia như: Chân Ngọc, Giác Tâm, Giác An, Giác
Thuyết, Thành Đạt, Diệu Thành…cùng một số người hữu duyên tới cung thỉnh
HÀNH-GIẢ:
Kính
xin ân phước của TAM BẢO, kính xin ân đức của Thượng Tọa đã dung mọi phương
tiện cứu độ cho miền AN THẠCH duyên khởi, ban phát cho các đệ tử thân tín hữu
duyên ở khắp nơi đều được hưởng ân phước cứu độ của TAM BẢO, hóa giải hết mọi
khổ đau sầu não.
HÀNH-GIẢ
đáp:
Hưởng phước lành
thì ai cũng muốn. Nói thì nhiều người có thể nói được, nhưng làm thì không đơn
giản dễ dàng…Lấy một thí dụ khoa phong thủy ở thế gian cần có 3 yếu tố căn bản:
1- Thiên thời, 2- Địa lợi, 3- Nhân hòa. Yếu tố nhân hòa đứng thứ 3 mà lại có
vai trò quan trọng nhất “Nhân hòa” túc là “Đắc nhân tâm” “nhân bất hòa ” tức là
“ thất nhân tâm”. Nếu “nhân bất hòa ” thì hai yếu tố “Thiên thời” “Địa lợi”
không đem lại điều tốt mà kết quả còn biến quái. Sinh ra nhiều việc tệ hại…(
Như những điều bất tường đã xẩy ra ở Quảng Phương Tịnh Xứ non Thị Vải tháng 7
năm Đinh Sửu (1997) và tại miền AN THẠCH Tây Nguyên Tháng 11 năm Mậu Dần
(1998)). Muốn được hưởng ân phước của TAM BẢO gia hộ cho được sung mãn, đã có 3
yếu tố trên rồi cần có hai yếu tố quan trọng nữa tất cả là:
1-
Thiên thời,
2-
Địa lợi,
3-
Nhân hòa
4-
Quốc Vương duyên ( Với thời gian hiện tại là việc thực hiện các chính sách và
sự quan tâm của Quốc Gia )
5-
Ngoại hộ duyên ( Sự phát tâm hộ trì của các đệ tử và sự ủng hộ của đàn na tín
thí )
Những điều phước
duyên này có thể thực hiện được tùy từng cá nhân, hoặc từng gia đình nếu biết
đồng tâm nhất trí thọ trì Phật Pháp thì sẽ hưởng được ân phước sung mãn của TAM
BẢO…
Nếu mong cầu cho
khắp nơi đều được hưởng duyên phước sung mãn của TAM BẢO thì thật là điều lý
tưởng! Phải phấn đấu rất nhiều, và rất khó khăn, là thương sách “Đắc nhân tâm”,
công trình của thời đại, công việc đáng quan tâm của Hàng nguyên thủ quốc gia?
Không phải công việc của một cá nhân có thể làm được!... Nhìn ngược dòng lịch
sử ta thấy các triều đại LÝ-TRẦN đã thực hiện được không phải lý tưởng hão
huyền viển vông nữa. Thời đó; vì đã khéo vận dụng PHẬT PHÁP đưa Phật giáo thành
Quốc Đạo làm cho Quốc gia hưng thịnh – được khoảng 400 năm. Có những giai đoạn
cực thịnh như giai đoạn“bình Chiêm-phạt Tống”của nhà Lý và giai đoạn “ba lần
chiến thắng Quân Nguyên”
của nhà Trần…
Với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ…với TỐI THƯỢNG SÁCH ĐẮC NHÂN TÂM VÔ CÙNG TẬN
đồng tâm hiệp lực từ vua quan triều đình xuống tới muôn dân, thành tín trước
sau như một. Lúc bấy giờ mỗi sự kiện lịch sử kết quả đều thành công rực rỡ.
Không để lại những hậu quả đau thương đáng tiếc. Đó là lẽ tự nhiên của luật
gieo nhân hưởng quả…Giờ đây muốn học và THỰC HÀNH được BÀI HỌC NGÀN VÀNG của
các bậc THÁNH TIÊN-VƯƠNG không phải đơn
giản dễ dàng…
Bây giờ tôi cho các vị đọc vài trang
của bộ sách “GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY” do Ni Sư Trí Hải Tiến Sĩ PHẬT HỌC hiện
đang là giáo sư của trường ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO VẠN HẠNH tại Thành Phố Hồ Chí Minh
dịch từ bản Anh Văn ra Việt Văn. Phần nói về các vị PHẬT tử, Quốc Vương, Đại
Thần, Khanh Tướng các học giả Bác học…cầu thỉnh TAM BẢO ban ân phước cho xứ sở
mình được hưởng những tinh hoa của PHẬT PHÁP đã sẵn sang hy sinh xả thí than để
tỏ tâm thành kính cầu thỉnh TAM BẢO chứng minh và gia hộ cho xứ sở mình như thế
nào?
2) TẠI TÂY TẠNG
Những giáo lý phổ cập đầu tiên đến Tây Tạng vào lúc bấy giờ đã
mai một. Sự truyền bá giáo lý hậu kỳ đã được thịnh hành. Nhưng một số người tập
trung vào tạng luật và bỏ qua mật giáo; một số khác thì ngược lại. Kinh giáo và
mật giáo trở thành đối chọi nhau như nước với lửa. Nhiều bậc học giả nổi danh
từ Ấn đến Tây Tạng, bị viễn ảnh vàng ở đấy dụ dỗ. Họ lừa bịp người bản xứ với
nhiều mật điển xấu ác và đầy dục tính. Tình trạng đã hóa thành hết sức khó khăn
để gieo rắc nền giáo lý thuần tịnh của đấng Chiến thắng. Quốc vương Tây Tạng
bấy giờ là Lhalama Yeshe Oe rất đau lòng trước tình trạng ấy. Vì muốn hoàng
truyền nền giáo lý thuần tịnh, ông đã gửi hai mươi mốt sinh viên thông minh của
Tây Tạng sang Ấn hầu mong khi họ trở về sẽ thành những bậc hiền trí có thể ích
lợi hơn cho dân Tây Tạng. Tất cả họ đều chết chỉ còn lại hai vị Rinchen Zangpo
và Legdaen Sherab; cả hai đều trở nên tinh thông giáo lý nhưng vẫn chưa có thể
rước Atìsha theo họ về Tây Tạng. Khi về nước, họ yết kiến vua để bàn cách làm
thế nào để hòa hợp kinh giáo và mật giáo với cách hành trì và tin tưởng của mọi
học giả Ấn. Họ nói: “Những học giả kia không ích lợi gì cho Tây Tạng. Ở Vikramashìla,
có một vị tăng dòng dõi vua chúa đã đạt giải thoát. Ngài có danh hiệu là
Dipankara Shrijnàna. Nếu bệ hạ mời được vị ấy thì chắc chắn sẽ lợi lạc cho Tây
Tạng. “Họ cũng nói rằng tất cả những học giả khác đều đồng ý về điểm này.”
Lời nói của họ làm cho vua an tâm, nhưng quan trọng hơn nữa là,
vua đã phát sinh một lòng tin mãnh liệt không lay chuyển ngay khi vừa nghe đến
danh hiệu của ngài. Vua phái Gyatsoen Senge cùng với tám vị khác đi rước Atìsha
về. Họ đem nhiều vàng, nhưng họ đã thất bại. Chính vị vua cầu Pháp cũng đi tìm
thêm vàng để có thể rước bậc hiền trí ấy về xứ mình.
Trưởng bộ lạc Garlog biết vị vua đang tìm cách để truyền bá Phật
pháp nên bắt cóc nhà vua cầm tù và hăm dọa sẽ giết nếu không bỏ ý định,
Jangchub Oe cháu gọi vua bằng chú, đến tìm cách giải thoát cho ngài, nhưng viên
tù trưởng nói: “Một là người bỏ ý định rước học giả ấy về nước, và ngươi phải
làm nô lệ cho ta, hai là đem một số vàng bằng sức nặng của vua, thì ta mới thả
vua về.” Jangchub Oe hứa giao vàng. Ông đưa ra hai trăm lượng vàng mang theo,
nhưng người tù trưởng nhất định không chịu. Cuối cùng ông đem tất cả số vàng
nặng bằng sức nặng của con người vua trrừ cái đầu. Tù trưởng cũng không bằng
lòng, bảo: “Tôi cần cả đầu, tất cả.”
Jangchub không có cách nào kiếm thêm vàng, nên đến cửa ngục khóc
và thưa với nhà vua: “Chú ơi, chú đã sống rất nhân từ, nhưng chú phải là nạn
nhân của nghiệp của quá khứ. Nếu cháu cử binh để đánh bại tên tù trưởng này thì
sẽ có rất nhiều người chết và cháu sợ chúng sẽ đọa vào cõi thấp xấu. Tên tù trưởng
này bảo cháu không được đi mời vị học giả này về, và phải làm nô lệ cho y.
Nhưng nếu chúng ta từ bỏ Pháp Phật thì tức đã đầu hàng tên tù trưởng tội lỗi
này. Cháu nghĩ là tốt hơn chú hãy kiên trì với chánh pháp. Y bảo cháu phải đem
một trọng lượng vàng bằng cả người chú, nhưng cháu chỉ kiếm được số vàng nặng
bằng thân thể chú ngoại trừ cái đầu. Y không chịu, nên bây giờ cháu lại ra đi
tìm thêm vàng cho đủ số để chuộc chú về. Trong thời gian đó, xin chú hãy nghĩ
đến nghiệp quá khứ của chú, cầu xin Ba ngôi báu, và nhất là chú nên dũng cảm mà
tạo phước nghiệp.”
Ðức vua cười lớn mà bảo: “Ta cứ tưởng là cháu đã sống một đời dễ
chịu sung túc nên không chịu nỗi gian nan, không có chút can đảm nào. Bây giờ
ta mới thấy cháu có thể chấn hưng truyền thống của tổ tiên sau khi ta chết.
Cháu đã hành động rất tốt, ta rất hài lòng. Ta nghĩ thật sai lầm nếu ta chết mà
chưa thiết lập được một nền chánh pháp không lỗi lầm cho xứ Tây Tạng. Ta đã
già, và nếu chưa chết bây giờ thì ta cũng chỉ sống thêm mười năm nữa là cùng.
Nếu ta bỏ ra quá nhiều vàng như thế chỉ để sống thêm chừng ấy tuổi, thì thật
làm cho Ba ngôi báu cũng thất điên bát đảo. Trong những đời quá khứ của ta
trong vòng vô thỉ sinh tử, ta chưa có một lần nào được chết cho chánh pháp. Vậy
thì, cháu đừng đưa cho tên tù trưởng một vụn vàng nào cả, thật tốt biết bao nếu
ta được chết cho chánh pháp. Mà chúng ta có thể đào đâu ra được số vàng để
chuộc cái đầu ta? Hãy đem hết vàng đi Ấn Ðộ, và làm mọi cách cháu có thể làm để
thỉnh bậc hiền trí Atìsha về.
Nếu ngài cho con tiếp kiến, thì hãy trao lại thông điệp này của
ta: “Con hy sinh mạng sống vì giáo lý của Phật và của chính ngài. Xin hãy che
chở cho con trong những đời còn lại, bằng lòng bi mẫn của ngài. Ý định duy nhất
của con là rước ngài về Tây Tạng; và con làm thế chỉ vì mong cho giáo lý Phật
được lan truyền khắp xứ. Bởi vậy xin ngài hãy chấp nhận lời yêu cầu của con.
Xin hãy gia hộ cho con để chắc chắn chúng ta sẽ gặp gỡ trong những đời vị lai.”
Này cháu, cháu hãy quên chú đi, và nghĩ đến những lời dạy của đức Phật.”
Nhà vua đã yếu, giọng ngài rất đổi thương tâm, nhưng Jangchub có
thể tin chắc ngài chỉ nghĩ đến thần dân Tây Tạng, đến giáo lý Phật, và đến
Atìsha. Ông bất đắc dĩ phải từ giả người chú thân yêu. Lòng ông thêm can đảm,
và ông đã hành động đúng theo ước nguyện của người chú”.
Đại Thần, Khanh Tướng Thượng lưu, Trí thưc …đã dùng mọi
phương tiện để tỏ tâm ân trọng thành kính cầu thỉnh TAM BẢO cứu độ cho xứ sở
mình được hưởng những tinh hoa của PHẬT PHÁP đã như vậy rồi. Tôi cho các vị đọc
một phần này nữa:
Ngày nay vua chuyển luân Aranemi có một
ngàn con trai người nào cũng phát tâm BỒ ĐỀ, hứa sẽ săn sóc một nhóm đệ tử.
Nhưng ho thấy những đệ tử sẽ khó điều phục vào thời đại hỗn mang khi mà thọ
mạng con người chỉ còn 100 năm, bởi thế họ đều tảng lờ những đệ tử này.
Chúng ta đang song trong thời kỳ kiếp
số giảm, cứ sau một trăm năm tuổi thọ của con người đều giảm đi một tuổi. Thời
ĐỨC PHẬT THÍCH CA thị hiện trên thế gian
này cách đầy gần 26 thế kỷ ( Phật lịch
2543 dương lịch năm 1999 ). Thời bấy giờ tuổi thọ bình quân của con người là
100 năm. Hiện nay người nào sống được bảy mươi tuổi đã là trường thọ rồi có câu
thơ cổ nói: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy ” nghĩa là “ người thọ bảy mươi tuổi
xưa nay hiếm ”. Do công nghiệp si mê tham lam tàn ác của chúng sinh tạo nên
chiến tranh tàn khốc lien mien. Nên các thiên tai, động đất, sụt lở, hạn hán lũ
lụt, bão bệnh tật, ôn dịch.v.v. xẩy ra không ngớt làm cho tuổi thọ con người
giảm sút quá nhanh.
Lịch sử PHẬT giáo gọi giai đoạn tuổi
thọ trung bình của con người từ 100 tuổi trở xuống là “thời kỳ hỗn mang” tâm
của loài người nhiều kẻ hỗn độn đảo điên…rất khó giáo hóa, còn tệ hơn loài thú
rừng hoang dã…càng xa về thế kỷ sau của kiếp số giảm càng khó thuần phục:
“ “ Kiếp giảm đọ người …ôi khó quá! Bồ
- Tát lắm NGÀI phải … “chào thua”! ”
“tảng lờ những
đệ tử này” là đành phải “chào thua” những đệ tử quá si mê tham ác. Vì thấy
không thể đảo lộn luật nhân quả, không thể gánh hết những trọng nghiệp mà họ đã
tạo ra. Khi họ đã không thực tâm tu cho tiêu trừ tội lỗi. Thì không ai có thể
gánh thay tất cả những nghiệp chướng và tội lỗi của họ đi được!...
Việc muốn độ cho
người được hưởng phước duyên lành, cũng ví như người thưởng thức một mâm cỗ đầy
những thức ăn ngon bổ với hương vị thượng hạng. Cần xét xem người đó có bị bệnh
đau dạ dày hay một căn bệnh nào khác không? Nếu không khéo xét để cho người bị
bệnh ung thư dạ dày giai đoạn 3 gần vỡ. Ham ăn đồ béo bổ bị thương thực (Trúng
thực). Không cấp cứu kịp phước lành đáng lẽ được hưởng lại biến thành tai
họa!...
Phương thuốc
THẬP TOÀN ĐẠI BỔ không phải ai dùng cũng đều tốt cả. Ngôi vị đế vương không
phải ai ngồi cũng yên cả đâu!...
- Kính bạch Thượng Tọa! tất cả đệ tử
chúng con xin phat nguyện TU HỌC TINH TẤN theo đúng chính pháp của ĐỨC PHẬT đã
truyền dạy.Diệt trừ tam độc tham sân si trở thành những PHẬT tử chân chính, có
trí tuệ sáng suốt, vững niềm chánh tín HỘ TRÌ NGÔI TAM BẢO. Không mê mờ lầm lạc
chạy theo sự phỉnh phờ lừa gạt của đám tà sư ngoại đạo. Chúng con nghĩ rằng
những điều phước thiện làm cho ích nước lợi dân. Theo như chính sách nhà nước
ban hành, những điều tốt lành thực sự “hữu xạ tự nhiên hương”
Nhất định
sẽ nhiều người kính ngưỡng. Chúng con nguyện tân tâm tận lực để làm cho xứ sở
của mình mãi mãi được thái bình thịnh vượng. Cầu xin Thượng Tọa TỪ BI xót
thương chứng minh và gia hộ cho tất cả huynh đệ chúng con ở khắp mọi nơi. Chúng con đều gắng làm lành lánh dữ cùng vui
hưởng trọn vẹn phần phước duyên không phải chỉ dành riêng cho miền AN THẠCH. Mà
còn làm cho thông đi để khắp nơi cùng hưởng.
Như vậy theo ý các vị muốn chuyển đầu
đề của thi phầm “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN -
THẠCH???” bỏ ba dấu hỏi để hưởng được phước duyên lành sung mãn mãi mãi mai
sau thành: “PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH
THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI”? còn tạm để lại một dấu chấm xem sao?
- Kính
xin Thượng Tọa bỏ luôn dấu chấm hỏi đó đi cho chúng con sơm sđược ân hưởng
phước duyên trọn lành đó ạ! Chúng con xin phát nguyện quyết làm cho được như
vậy.
*
* *
HÀNH-GIẢ nhìn vào hư không mênh mông nói thì thầm như hòa
nhập cùng mây gió:
- Giờ đây ta
biết được rằng: Từ bấy lâu nay ở thế gian này ta toàn làm việc công cốc “cốc mò cò xơi” rồi lại hưởng oan nghiệt
triền miên nối truyền của dòng Nguyễn Trãi ! làm kiếp dã tràng xe cát mãi!...là
ông lão Ngu Công lông bông, suốt đời làm mướn không công. Chỉ có luật nhân-quả
ghi chép được chính xác và xét xử mọi việc công bình nhất:
“Kẻ lo tranh được” không sợ
“mất”?
Người “mất ” hết rồi được cái KHÔNG!”
THỰC HÀNH: “TỪ-BI-TRÍ-DŨNG cùng HỶ-XẢ
Biết rõ rằng:
“Khứ lai” “Đắc Thất” cũng tương đồng!”
Chẳng còn gì
phải vướng bận với trần gian này nữa, làm cánh chim bay vút vào hư không vô
tận.
(2) Hai câu: “ Thường ăn lộc búp cây Van Tuế
Tư sản Hoa Kỳ được ăn
không?”
Hiện nay ở nhiều
nơi sang trọng như những khách sạn, công viên biệt thự v.v.. người ta cho lùng
tìm kiếm những cây cảnh quí tượng trưng cho sự vinh hoa vĩnh cửu, như những cây
Thiên Tuế Van Tuế…
Trong sách Từ điển “Cây thuốc viêt ”
trang 1312 Giáo sư Phó Tiến Sĩ Võ Văn Chi có viết: Cây Vạn Tuế
Bộ phận dùng: Hạt, lá, nón, rễ - semen, Folium,
cous, et Radix cycatis Revolutae
Nơi sống và thu hái : Loài cây của Nhật Bản được
trồng ở Nam Trung Quốc, Đông Ấn Độ và Việt Nam. Ở nước ta cây được trồng làm
cảnh ở nhiều nơi ( Giờ đây sau chưa đầy một tháng tới nghiên cứu dược liệu tại
vùng đồi núi thuộc xã TÚ AN, Huyện An Khê, Tỉnh Gia Lai Đông Y Sĩ Nguyễn Thế
Định (TU SĨ Thích Quảng Định) tiếp nối sự nghiệp cứu nhân độ thế của Tổ Sư Tuệ
Tĩnh đã biết được trên miền cao nguyên này có nhiều cây Thiên Tuế cao tới 6-7
m, nhiều cây Vạn Tuế cùng nhiều loại thuốc quí khác mà nhân dân địa phương chưa
biết tận dụng, đã phá bỏ một cách uổng phí !)
Thu hái các nón và hạt (cây Vạn Tuế) vào mùa hè thu, rửa
sạch phơi khô dùng dần lá và rễ thu hái quanh năm.
Thành phần hóa học : Thân cây có
bột như bột cọ, chất màu, các axits béo ; palmitic, stearic, oleic,
behenic và các azoxyglucosid. Hạt chứa 25 % dầu cyca sin, insiton,
piniton, cholin, trgonellin, adenin, hystidin.
Tính vị tác dụng : Vị ngọt nhạt
tính bình lá có tác dụng thu liễm chỉ huyết giải độc chỉ thống. Hoa có tác dụng
lý khí, chỉ thống, ích thận, cố tinh. Hạt có tác dụng bình can, giáng huyết áp.
Rễ có tác dụng khu phong, hoạt lạc, bổ thận.
Công dung : Lá được dùng trong các trường
hợp xuất huyết viêm dạ dày, loét dạ dày tá tràng, huyết áp cao, đau dây thần
kinh, mất kinh, ung thư. Hoa chưa đau thượng vị, di tinh, bạch đới, đau kinh.
Hạt dùng trị huyết áp cao. Rễ dùng trị lao phổi, đau răng đau thắt lưng, bạch
đới, thấp khớp tạng thống phong, chấn thương, bị thương.
Liều
dùng lá và hoa 3- 6 g, hạt và rễ 10 -15g dạng thuốc sắc.
“Ghi chú: Hạt và ngọn thân có độc khi dùng phải cẩn
thận.”
(3)
“Đại
tỷ phú hơn ngàn nhà tỷ phú
HẠNH THIỂU DỤC TRI TÚC quí đẹp sao?
Giàu PHƯỚC TUỆ CÔNG ĐỨC như núi
tụ
Luôn xả ra bố thí chẳng vơ vào !
”
( Trích trong bài “Bóng nhạn lưng trời” từ câu 341-344
chuyển sang)
Được làm học trò của bậc Đại Y Vương thông hiểu tính
năng diệu dụng của từng loại kim thạch, thảo, mộc đồng thời biết rõ mọi căn
nguyên bệnh tật nghiệp chướng của chúng sinh mà tùy bệnh cho thuốc.
Được làm đệ tử
của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN HỌC và THỰC HÀNH được công hạnh THIỂU DỤC (ít
ham muốn), HỶ TÚC ( vui đủ ), thì ở bất cứ nơi nào, dù là nơi thâm sơn cùng cốc
rừng hoang đảo vắng cũng luôn luôn vui đủ an lạc, giàu phước đức trí tuệ. Như
vậy? Không phải là giàu hơn cả ngàn nhà tỷ phú ở trần gian?. Sống giữa nơi phồn
hoa đô thị, với vô số phương tiện để phục vụ cho đời sống mà hạ vẫn thấy chưa
thỏa mãn?...Họ còn muố tìm trăm phương ngàn kế làm sao cho được tận hưởng nhiều
hơn nữa… cũng vì thế mà xẩy ra chiến tranh!...
Ôi thế gian thật tội nghiệp vô cùng! Thật đáng thương
vô cùng!
Chúng ta đặt vấn đề nếu thế gian này nhiều có nhiều
người đặt công hạnh THIỂU DỤC (ít ham muốn), HỶ TÚC ( vui đủ ) thì thật là tốt
đẹp biết bao?
“
HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ
THIỂU DỤC kham khổ thích thanh
cao
Giàu trăng giàu gió hơn tỷ phú,
Tụng Kinh ngâm Kệ ĐẠI THI
HÀO! ”
Được làm học trò của BẬC ĐẠI Y VƯƠNG THẾ GIAN GIẢI,
ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU luôn luôn được sức tráng kiện ; ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TRÍ
, ĐẠI DŨNG, ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ…sung sướng hoan lạc biết bao! Được
làm đệ tử của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN
THÍCH CA MÂU NI PHẬT thật vinh hạnh vô cùng.
Lời bàn: Phần chú thích (1) chú thích (2) là một đoạn
bốn câu thơ:
“Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế,
Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
“Ăn sang” mà chẳng tốn mấy
đồng!(3)”
cây Vạn-tuế mỗi năm chỉ ra lá non có một lần. Theo như phần “tính vị tác
dụng” trong sách “Từ điển cây thuốc Việt Nam” ở trên cây Vạn-tuế “ vị ngọt,
nhạt, tính bình. Lá có tác dụng lý khí chỉ huyết giải độc chỉ thống”
Lá non của cây Vạn-tuế có nhiều tác dụng quí như vậy, những món ăn ngon của các nhà tỷ phú trên thế
gian này dễ gì sánh bằng !
Xin hỏi các nhà Tư sản Hoa Kỳ
trồng được những cây Vạn-tuế làm cảnh có dám “xài sang” cắt “lộc búp ”
mà xào nấu ăn không? Dám chăng chỉ có con BẬC ĐẠI Y VƯƠNG, BẬC ĐẠI TỶ PHÚ ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN THÍCH CA MÂU NI PHẬT vừa là môn đệ của Giáo
sư Bác học Ô-Sa-Wa về môn DƯỠNG SINH “gạo lứt muối mè” mới được. “Thường
ăn lộc búp cây Vạn-tuế,”
Thế có lạ không chứ! “Ăn sang”
mà chẳng tốn mấy đồng!(3)”
Thật kỳ diệu thay!
(4) “ Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi
“chè phê” )
Mấy ngày mưa bão Trai ngọ sớm
Tráng miệng chuối ương chấm
muối mè”
Suốt một tháng ở
trong rừng núi của miền cao nguyên thôn AN THẠCH, xã TÚ AN, Huyện AN KHÊ, Tỉnh
GIA LAI:
“ Lều treo bên suối không phên vách
Gió
lộng mênh mang chin phương trời
Và: “ Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa,”
Thức ăn là những món rau rừng cũng là các dược thảo quí có nhiều tính
năng chữa bệnh rất tốt như “ Cây rau má, lá rau muống, cuống rau răm” “ cây cải trời ” “ cây rau diệu” “Rau tàu
bay” “ Cây thiên tuế ” “Cây Van Tuế” … mọc tự nhiên trên đồi ven suối.
“Đi hái rau rừng
xem địa lý!”
Vẫn thong thả ung dung ngâm nga thi kệ, thưởng thức
“ Cà phê đệ tử Lâm Đồng cúng,
(đường pha quá ngọt gọi
“chè phê” )
Dễ gì có mấy ai hàng Giáo sư Tiến sỹ hay các nhà tỷ phú ở Thủ đô Hà Nội
hay “ Hòn Ngọc Viễn đông” Sài Gòn có được “ Đi cắm trại” bên bờ suối nơi thâm
sơn cùng cốc miền AN THẠCH này “ độc ẩm ” đặc sản “ chè phê ” của các đệ tử
vùng kinh tế mới LÂM ĐỒNG nghèo tiền bạc mà giàu đạo tâm sâu năng tình
nghĩa!...
Câu thơ “ Mấy ngày mưa bão Trai- ngọ sớm ”
“Trai- ngọ” là nói về việc các vị xuất gia TU HÀNH theo giáo pháp của ĐỨC
PHẬT: trong ngày chỉ ăn có một bữa vào giờ ngọ buổi trưa ( Từ 11 h- 13 h) trước
khi ăn phải hành pháp “ Tam đề ” ba lần mỗi lần cầm cái muỗng nhỏ xúc chừng 7
hạt cơm đưa vào miệng thầm niệm:
- Sơ đề nguyện đoạn nhất thiết ác (Điều thứ nhất: nguyện dứt bỏ tất cả
những điều ác)
- Nhị đề nguyện tu nhất thiết thiện ( Điều thứ hai: Nguyện làm tất cả
những việc thiện)
- Tan đề nguyện đô nhất thiết chúng sinh (Điều thứ ba: Nguyện cứu độ tất
cả chúng sinh)
Trong khi ăn lại nhiếp tâm hành pháp “Ngũ quán”:
Ăn cơm có quán niệm là ăn cơm trong chánh niệm,
ăn cơm trong tỉnh thức, ăn cơm trong an lạc. Quán niệm như sau:
1. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn
gọn: "Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác.”
2. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn
gọn: "Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này.”
3. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn
gọn: "Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật tham lam.”
4. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn
gọn: "Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa
tật bệnh.”
5. Quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn
gọn: "Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.”
Ăn chay vào giờ ngọ mới gọi là “ Trai Ngọ ” “ Ngọ Trai” hay “ Thọ Trai”
Vì mấy ngày mưa bão của cơn bão số 7 (năm 1998) kéo dài không ra ngoài
trời làm việc được nên đành ở: “ Lều
treo bên suối không phên vách
Gió
lộng mênh mang chin phương trời”
Thế mà vẫn
thấy: “ Thầy ngồi cặm cụi bên chồng
sách,
Tìm phương
cứu chữa bệnh nơi đây,
Gió núi mưa rừng miền An Thạch,
Thiếu thuốc
đường xa, khó rước Thầy.”
Và truyền dạy cho các đệ tử làm công việc của một nghiên cứu sinh VIỆN
ĐẠI HỌC ĐÔNG Y như trước đây mình đã quen làm; là tra cứu, biên chép phần dược
tính công năng diệu dụng của các loại được thảo vùng chuyển tiếp cao nguyên
này. Mõi người mỗi việc tuy bận rộn nhưng vẫn sắp xếp “trai ngọ sớm” được.
Buổi sáng đã thưởng thức “chè phê” đặc sản của đệ tử Lâm Đồng cúng rồi
thọ trai xong lại: “Tráng miệng chuối ương chấm
muối mè”
Trước đây khi ở Núi Thị Vải Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 1992 HÀNH GIẢ viết:
“ Mùa khô hiếm
nước hoa vẫn đẹp
Chuối chin vàng tươi vị ngọt ngào, ”
( Trích trong bài “ Tịnh thất non Thị Vải ”)
Màu “chuối chin vàng tươi” với “
vị ngọt ngào tự nhiên” của nó thì đã quá ngon rồi, cần chi phải ăn kèm thêm gia
vị nào khác nữa.
Câu thơ Tráng miệng chuối ương chấm muối
mè” ta thấy có từ “ương” hay “ương ương”
của miền Bắc là từ “hườm hườm” của phương Nam. “chuối
ương” là chuối chưa thật chin thơm ngon, mới bắt đầu chuyển từ màu xanh sang
màu vàng nhạt. Nếu chuối mới
“ương” mà đã ăn là chuối còn cứng chưa thật chin thơm ngon vẫn còn vị
chat, cho nên phải “chấm muối mè” để chế bớt vị chat của nó đi!...
Từ
“ương ” còn có một nghĩa để nói về người như “đồ ương bướng ngang ngược” “Kẻ
ương ngạnh ngổ ngáo” tương tự như hồi năm 1989 cứu độ người:
“
Vùng kinh tế mới bao xa lạ,
Gia Lâm, Lâm Hà xứ Lâm Đồng ”
Lắm kẻ tiểu tâm, đông xảo trá,
Nhiều người quậy phá ngược, ngang, ngông!”
( Trích bài “Lời nguyện biệt ly” )
Thành ngữ “chuối ương chấm muối mè!” với một dấu chấm than
(!) đi tiếp theo phải chăng đây là lời tiên tri mang một hàm ý sâu xa rằng: “
Nếu sau này cứu độ người ở đây, sẽ có những người “ương bướng” thấy người làm
phước thiện không dễ gì họ đã vui cầu học tin nghe, trái lại thường “ương
ngạnh” điều hay xoay điều dở, tốt trở thành xấu cản găn quậy phá.v.v. Kết quả
công việc là; nếu cố gắng lắm cũng như việc “chuối ương” phải “chấm muối mè”
mới đỡ chat! Khó có thể làm cho nó “ chin thơm ngọt ngào ngon lành được?! ”
Quả thật như vậy! sau đó
có mấy ngày điều này đã được chứng nghiệm. Rõ rang chỉ có vài người ngăn cản mà
nhiều người phải “chịu thua”! để xứ sở đó không được hưởng ân phước gia hộ của
TAM BẢO!
“ Nhiều Phật tử
thua một “trùng sư tử”
Lắm người TU sợ
vài kẻ phá TU
Chẳng ngăn dẹp tà ma, trừ kẻ dữ
Loài ác ma, quỉ quái để yên
ư ?”
( Trích trong
bài « nói chuyện người đến chùa và người ở chùa » )
Thật đáng thương thay! tội nghiệp thay!
(4) Đi hái rau
rừng xem địa lý!
Phơi đồ còn phải xét thiên
văn!(5)
Câu “Đi hái rau
rừng xem địa lý!” ý nói ở vùng núi có khi lên đồi cao tìm thuốc hái rau (sơn
cao dương khí thịnh ), có lúc xuống bờ suối sâu kiếm tầm dược thảo ( thủy thâm
âm khí vượng )
Bấy giờ nơi mình đang ở làm trung tâm
điểm đi về hướng Đông cung CẤN là dương, đi về hướng TÂY cung ĐOÀI là âm, hướng
BẮC cung KHẢM là âm, hướng NAM cung LY là dương.
Trong khoa địa lý có những câu châm
ngôn “ Sơn cao thủy thâm, ÂM DƯƠNG THỊNH VƯỢNG ĐỊA LINH SINH NHÂN KIỆT ”
Và câu:
“ SƠN BẤT CAO, THỦY BẤT THÂM
NAM ĐA TRÁ, NỮ ĐA DÂM ”
Lại có câu:
“ TIÊN TÍCH ĐỨC, HẬU TẦM
LONG ”
Đây là những yếu
tố quan trọng trong việc tìm nơi ở tốt tránh nơi ở xấu của các nhà PHONG – THỦY
HỌC cùng các nhà nghiên cứu thực nghiệm như: Y-KHOA, DƯỠNG SINH, TRƯỜNG SINH
HỌC, MÔI TRƯỜNG HỌC, THỔ NHƯỠNG HỌC … Có lien quan mật thiết tới các vấn đề âm
dương, thủy hỏa và luật bù trừ chế hóa, luật ngũ hành tương sinh, tương khắc
cần nghiên tầm thật kỹ lưỡng!...
Những phàn nói về các cung ứng vào phương
hướng như “ CÀN Tam liên ( ) TÂY- BẮC
Tuất – Hợi . KHẢM trung mãn ( ) chính
BẮC cư Tý…”
Với các hình thể Núi cao, song sâu, hồ đầm, suối khe
bao bọc, núi gò che chắn.v.v. thuộc về khoa ĐỊA LÝ.
Những
phần như xem ngày giờ tốt xấu xét chiều gió xem áng mây, xem tinh tú … là thuộc
khoa THIÊN VĂN. Thí dụ như
các môn:
1-
Xem ngày giờ tốt xấu để dung ngày giờ vào các việc; dung ngày giờ Hoàng
đạo, giờ quí nhân, ĐĂNG THIÊN MÔN; tránh các ngày giờ xấu như Hắc đạo, sát chủ,
thọ tử.v.v.. ( xem cuốn “Nguyên lý chọn ngày THEO LỊCH CAN CHI ” của GS TS Y
KHOA Hoàng Tuấn do nhà xuất bản thông tin văn hóa ấn hành năm 1999 )
2-
Cách nhìn áng mây:
“ Dáng mỡ
gà thì gió,
Dáng mỡ chó thì mưa”
3-
Cách xem chiều gió có những câu như:
“ Cơn đằng
Đông vừa trông vừa chạy
Cơn đằng Tây mưa giây bão giật
Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi
Cơn đằng Bắc xúc thóc ra phơi ”!
*
* *
(5) - Nước Trung Hoa ở vào thời kỳ TAM QUỐC-
GIA CÁT LƯỢNG chẳng đã dung pháp lập đàn cầu gió Đông để thắng TÀO THÁO trong
trận Xích Bích đó sao?
- Cachs xem
tinh tú để biết thời tiết nắng mưa:
Có câu: “ Trăng quầng thì hạn,
Trăng tán
thì mưa ”
Các phép
xem sao ĐẠI HÙNG TINH, TIỂU HÙNG TINH sao chổi .v.v. để biết được nhiều điều
thần bí huyền diệu… Ngoài ra còn nhiều phép xem khác nữa… nên xem cuốn “ Đàm
thiên thuyết địa, luận nhân ” được nhà xuất bản thông tin văn hóa phát hành, và
cuốn “Mai hoa dịch số” của Thiệu Khang Tiết tiên sinh.
Câu thơ: “ Phơi đồ còn phải xét thiên
văn” !
Có một ý
nghĩa thiết thực nhất ở đây là: trong thời gian mấy tháng trời bão nước ngập
lụt mưa dầm sùi sụt của cơn bão số 6& số 7 năm 1998. Khi cho chuyên chở đồ
đạc cùng mười mấy bao thuốc tới để nhà chú Năm Sương ở thôn An Thạch. Muốn bảo
quản đồ đạc và thuốc được khô ráo không “xét thiên văn” cho khéo. Khi đang phơi
trời ập đổ mưa xuống, vội vã bốc hốt vào cả trăm thứ thuốc lẫn lộn lung
tung!... lúc đó ai có thể hóa thành cô Tấm để thời gian và kiên trì lượm từng
vị thuốc nào vào vị thuốc ấy cho khỏi lầm lẫn được…? Trước ngày cho phơi thuốc
trời cũng mưa. Hôm chỉ cho các đệ tử phơi thuốc , Ông Trời đã “ưu tiên” dành
trọn một ngày đêm nắng ráo đẹp. Thật kỳ diệu thay!
Mấy ngày
tiếp sau Trời lại mưa tầm tã các đệ tử bảo nhau “Thầy cho ngày phơi đồ hay
quá”. Trong chuyến đi “cứu trợ vô thời hạn” theo hạnh nguyện:
“ Thương dân quê mới nhiều
khổ nạn
Lễ bạc tâm thành thỉnh vẫn về ”
Và “ Xót khổ nhân sinh miền biên địa
Tìm đâu NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO
TÂM LINH”
Của
HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG kỳ này tại miền An Thạch đã được TAM BẢO chứng minh và gia hộ
. Các đệ tử xin phát nguyện được làm việc công đức trong đợt đi cứu trợ lần này
Thưc xoa ma na BỒ TAT GIỚI Thích nữ Chân Ngọc, ưu bà di BỒ TÁ GIỚI Lưu
THị Hiên Pháp danh Giác Hảo, Ưu Bà Di BỒ TÁT GIỚI PhẠM Thị Bình Pháp danh Giác
An, Ưu bà tắc NGŨ GIỚI Đới đăng Nhâm pháp danh Thành Tấn. Tất cả đều rất phấn
khởi nỗ lực trong từng công việc, ai cũng thích và thường ngâm nga mấy câu:
“ Đi hái rau
rừng xem địa lý!
Phơi đồ còn phải xét thiên văn!”
(6) - Hai câu thơ:
“ THI SỸ TẢN ĐÀ thành tri kỷ
Họa thơ, nối vận mấy mươi vần!”
Có xuất xứ
hơi dài, phải dẫn giải như vầy:
Sáng ngày
mồng 9 tháng 11 năm Mậu Dần (1998)
Hai đệ tử
Chân Ngọc và Giác Hảo được cử về Bình Định chở nốt số đồ đạc hơn chục bao
thuốc tới An Thạch để bố trí trong kỳ
“cứu trợ vô thời hạn” lần này. Còn lại Giác An và Thành Tấn ở lại đi lấy củi.
Vừa vác củi hai đệ tử nhắc nhau học những vần thơ trong bài thơ “ Về Lễ chùa
HƯƠNG TÍCH ” mà HÀNH GIẢ viết năm 1985 khi về lĩnh thọ quyền pháp của ĐỨC ĐẠI
BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT để cứu đọ người Phương Bắc trong những năm 1984 đên năm
1988. Trước đây có những chỗ chưa thông hiểu kĩ. Giác An cùng Thành Tấn cầu
thỉnh HÀNH GIẢ truyền dạy cho ghi chép lại thật chính xác:
Về lễ Chùa
Hương-Tích
Con về Hương
Tích lễ QUAN-ÂM
ĐẠI TRÍ, ĐẠI TỪ,
ĐẠI-BI-TÂM
Chúng sinh muôn
khổ mong cứu độ
Hóa giải phiền
oan vạn lỗi lầm…
Lỗi lầm trong
muôn kiếp u minh
Trôi lăn chìm
nổi mấy tử sinh,
Hương thơm tỏa
ngát miền Hương Tích
Hương Đạo xua
tan khổ hữu tình.
Hữu tình chẳng
trói kiếp trầm luân,
Vay trả trả vay
vạn duyên trần
Về lễ Hương sơn
tiêu sầu khổ,
Qua mùa đông giá
đẹp trời xuân
Xuân về cầu lễ
ĐỨC QUAN-ÂM
Truyền trao
QUYỀN-PHÁP ĐẠI-BI-TÂM
Chúng sinh muôn
khổ NGUYỀN-CỨU-ĐỘ
NGỘ-LÝ-CHÂN-NHƯ,
tuyệt lỗi lầm.
Ngày 19 tháng 02 năm
bính dần (1986)
Bài thơ này làm
theo thể thơ đường luật: Thất nôn tứ tuyệt, gối hạc, nối vận ( nghĩa là mỗi khổ
thơ có 4 câu, mỗi câu có 7 tiếng. Tiếng cuối của câu thứ nhất là vần “trắc” bắt
vần với tiếng cuối của câu thứ ba là vần “trắc” tiếng cuối của câu thứ hai là
vần “bằng” bắt vần với tiếng cuối của
câu thứ tư là vần “bằng”). Còn “nối vận”
nghĩa là mượn ngay tiếng cuối của khổ thơ trước làm tiếng đầu của khổ
thơ sau, cùng một từ mà diễn đạt ý khác nhau… xin tạm giải thích sơ lược như
vậy.)
Ghi chép xong Giác An và Thành Tấn xin
phép đi lên đồi hái rau rừng…
Gần một tiếng
đồng hồ sau mỗi đệ tử xách về một giỏ đầy các loại rau ngon và bổ mà thiên
nhiên ở đây đã ưu đãi mời chào. Vừa về đến nơi Thành Tấn vui vẻ nói:
-
Thầy dạy chúng con biết được dược tính
của nhiều loại rau có nhiều vị thuốc quí lắm!
Giác An thưa:
-
Bạch Thầy Chúng con hái được nhiều loại rau có dược tính quí như ; “ cây
rau má, lá rau muống cuống rau răm”, vùng này gọi là “cây chua lè” “cây cải trời” mà thầy đã cho chúng con học
trong sách “những cây thuốc và vị thuốc Việt- Nam” của Giáo Sư Đỗ Tất Lợi Cây
cây “rau Tàu bay” được thầy đặt tên linh dược là “Kháng Nhiễm dược tàu bay”
theo phần dược tính trong sách “ Từ điển Cây thuốc Việt Nam” của Giáo Sư Phó TS
Võ Văn Chi… Nhiều thứ rau có dược tính quí lắm! Các huynh đệ chúng con ở Hà
Nội, Sài Gòn… dễ gì được thưởng thức những món rau tự nhiên quí báu này! Chỉ
thiếu món rau sắng của Chùa Hương thôi!...
Nghe nói
đên “rau sắng Chùa Hương” bất giác khiến HÀNH-GIẢ nhớ lại một câu chuyệ 35 năm về trước….lưa tuổi
15 “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” cái thủa còn là cậu học sinh lớp 8 (8/10)
của trường phổ thông cấp III Đình Bảng ( Quê hương của 8 đời Vua Lý cùng với
Quốc Sư VẠN HẠNH )…
Một buổi sớm mùa Đông mưa phùn gió bấc
rét buốt tận xương. Hàng ngày cậu học sinh đó phải đạp xe ngược gió 7 cây số
tới lớp học của xóm Núi xã Tam Sơn. Là nơi trường sơ tán tránh máy bay Mĩ bắn
phá trong niên học 1964 – 1965. Đang lúc căn bệnh hen suyễn bẩm sinh hành hạ
khổ sở như muốn nghẹt thở… thời khóa biểu hôm đó là hai giờ thể dục ngoài trời…
“không có môn nào quan trong lắm”…
Tìm lý luận để bao biện tự cho là có
lý như vậy; cậu học sinh đó quyết định “trốn học”… đã đi tới đầu Thị trấn Từ
Sơn, cậu liền đạp xe vòng lại nhà người anh kết nghĩa tên là Nguyễn Phụ Lễ
(đồng niên với thân Phụ là tuổi Bính Dần năm 1926 ) ở thân Thượng cùng quê là
anh cả trong nhóm “Tao đàn ” của cậu. Tất cả đều ưa thích sáng tác và bình luận
về các thể loại văn học nghệ thuật như: truện ngắn, truyện dài tiểu thuyết, thi
ca, nhạc, kịch, phê bình, tiểu luận…họ thường uống trà Phú Thọ “Cắm tăm” và hút
thuốc lá Lạng Sơn thượng hạng…
Đề tài bình luận rôm rả hôm đó là nói
về thân thế sự nghiệp của Thi sĩ TẢN ĐÀ Nguyễn Khắc Hiếu…Hồi tưởng lại tới đó,
HÀNH GIẢ nói với các đệ tử:
- Ta nhớ rằng; “rau
sắng” là một đặc sản
của vùng Chùa Hương và một kỳ tích về một nhà thơ có đời sống đạm bạc
thanh bần rất thích món rau này. Cùng với một nhà sư vô danh ngẫu nhiên trở
thành tro âm tri kỷ tại quê hương xứ sở của ông…
Các đệ tử
reo lên:
- Cầu xin
Thầy truyền dạy cho chúng con…
Nét mặt
hiền hòa thân thương cùng tiếng nói dịu dàng của người anh cả nhóm “Tao Đàn”
Năm xưa với
khả ăng học vấn tốt nghiệp Đip-nôm thời Pháp và trung cấp âm nhạc. Anh bị hỏng
mắt từ năm 18 tuổi sau một kỳ đau mắt nặng…còn in đậm trong tâm trí HÀNH GIẢ
như vùa mới hôm nào…
Hồi đó trên một trang báo của báo “TỪ
BI ÂM” thấy xuất hiện 4 câu thơ:
“ Muốn ăn rau sắng Chùa
Hương,
Tiền đò
ngại tốn, con đường ngại xa
Không đi ta ở lại nhà
Những là dưa
khú cùng là cà thâm.”
Với bút hiệu
Tản Đà chưa đầy một tuần lễ sau thi sỹ Tản Đà nhận được bằng đường Bưa điện một
bó rau sắng thật to còn tương xanh với một phong bì thư với 4 câu thơ ;
« Kính dâng rau sắng
Chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn con đường đỡ xa
Không đi xin gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm »
Trên thế gian
này mấy ai đã tìm gặp được người tri kỷ tri âm. Đối điện tiếp chuyện với nhau
nhiều lần mà vẫn chẳng hiểu ý nhau làm sao có thể nói là tri âm tri kỷ?
Người chưa
từng hạnh ngộ chỉ đọc qua mấy vần thơ mà đã thấu hiểu được nỗi lòng mình vừa
khởi xướng lên đã ứng họa lại liền tình ý hòa quyện nhau như rồng lượn trong
mây. Lời lẽ hiền từ như một lần chắp tay vái chào thep thế võ « đồng tử
bái Quán Âm » của môn phái Thiếu lâm Tự. Vừa dũng mãnh hiên ngang vừa kín
đáo khép mình khiêm hạ…
Thi sỹ Tản Đà
liền ghi lại những vần họa thơ trên và đặng tiếp những câu thơ « nối
vận » để tỏ niềm tri âm với người tâm đắc với mình.
« Mấy lời cảm tạ tri
âm
Đồng bang là ghĩa đồng tâm là tình.
Đường xa rau sắng còn xanh
Tiện đây xin gửi chút tình nước non. »
Ta có thể ghi
lại liên tiếp những đoạn thơ trên như thể xướng họa ứng đối theo lối hát đối
hát ví của dân ca quan họ Bắc Ninh :
“ Muốn ăn rau sắng Chùa
Hương,
Tiền đò
ngại tốn, con đường ngại xa
Không đi ta
ở lại nhà
Những là dưa
khú cùng là cà thâm.”
- Vị sư Chùa
Hương họa :
« Kính dâng rau sắng
Chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn con đường đỡ xa
Không đi xin gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm »
-
Thi
sỹ Tản Đà nối vận :
« Mấy lời cảm tạ tri
âm
Đồng bang là ghĩa đồng tâm là tình.
Đường xa rau sắng còn xanh
Tiện đây xin gửi chút tình nước non. »
…Vào những
tháng năm cuối thế kỷ 20 này. Trên khắp non sông đất Việt có mấy ai đọc và nhắc
tới một nhà thơ có đời sống đạm bạc thanh cao mà sâu nặng với tình đất nước quê
hương. Tác giả « Khối tình con » và « Lời thề non nước »
quê miền Sơn Tây có Núi Tản Viên hiên ngang và dòng Sông Đà hùng vĩ ! Ông
đã lấy địa danh sông núi quê hương làm bút danh của mình : Thi sỹ Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu
Phải chăng lúc
này Thi sỹ Tản Đà lại hữu duyên lại có thêm người tri âm tri kỷ là Đệ tử của
Đức QUÁN ÂM Chùa Hương Tích trong kỳ đi « Cứu trợ vô thời hạn » trên
miền cao nguyên lần này ?…
Nghe xong câu chuyện các đệ tử tán
thán rằng :
Chúng con rất
thích bài kệ « Về Lễ Chùa Hương Tích » đầy đạo vị Thầy đã truyền dạy
cho đệ tử chúng con cùng với những vần thơ sâu nặng tình quê hương đất nước của
nhà thơ miền Núi Tản Sông Đà. ??.
Và thường vui thích ngâm nga câu ngững
vần thi kệ ấy cho đến thuộc lòng luôn trong ngà hôm đó !...
(7) Hai câu
thơ :
« Đêm ngủ: nền lều như trải đá,
Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa »
a- Ta luận xét câu : « Đêm ngủ: nền lều
như trải đá, » với từ nền lều nge có vẻ lạ tai ? Người ta thường nói
« nền thất », « Nền Nhà » « nền bếp » « nền
trại » từ « nền chòi » chắc cũng ít ai nói tới ? đây lại
nói từ « nền lều » thì có thấy lạ tai không ? trong « từ
điển tiếng Việt » chẳng biết có từ « nền lều » không
nhỉ ?...
Vì không
làm chùa, không dựng thất, chẳng cất nhà mà cũng khộng lập trại, chỉ làm lều
với một cách riêng ; không cần dựng cột, chẳng cần ráp kèo, không buooch
rui mè theo một kiểu mẫu nào hết mà thiết kế theo lối « kiến trúc đặc
biệt » là chỉ việc lấy dây treo lều lên các thân cây :
« Lều treo bên suối không phên
vách »
Để tận hưởng :
« Gió lộng mênh mang chin phương trời”
Suốt một tháng năm sương gối đất ( Phải nói là « tắm
sương nằm đá, gối đất » thì mới sát thực hơn) bên bờ suối tìm nơi có được
những yếu tố thật lợi lạc cho nhân dân ở đây :
« Trồng thuốc cứu người, hoa cúng
PHẬT,
Lương thực, rau xanh hợp… TU TRÌ,
Bên bờ suối nước, vừa có đất,
Rừng cây núi đá tiện đường đi. »
Ta có thể ghi thành một bản gồm những mục như sau :
1- Có đất ( để trồng trọt)
2- Bên bờ suối nước, hay nguồn nước dù nắng hạn lâu cũng
có nước đủ sinh hoạt và tưới.
3- có đủ các yếu tố để trồng cây thuốc cứu người.
4-Có đất để trồng đủ các loại hoa thơm để cúng PHẬT
5- Có đất để gieo trồng cây lương thực. Vui ưa việc
« tự tác-tự TU » đồng thời được làm công hạnh « Thượng cúng
dường, Hạ bố thí »
6- Có đất để trồng thật nhiều các loại rau có bổ dưỡng
cao và nhiều được tính quí báu.
7- Có rừng cây ; để hòa nhập với thiên nhiên và môi
trường sinh thái.
8- Có Núi Đá hoặc cũng có tảng đá lớn ứng hiện như
« thạch tượng » « thạch mã »
9- Tiện đường đi nếu không thì cũng không đến nỗi không
gồng gánh đồ tới được.
10- Hợp TU TRÌ : gồm 9 yếu tố trên cộng với yếu
tố : Thiên thời, địa lợi, nhân hòa
…Trong những
đêm đông lãnh lẽo của miền sơn cước cao nguyên . Bao nhiêu người còn say sưa
trọng nêm êm mền ấm ! Những con người này là ai ? Họ từ đâu
tới ? và tìm cầu điều gì nơi đây ? Họ có điên khùng không mà chịu nằm
trên « nền lều » mấp mô gồ ghề « như trải đá » vậy ?
1-Những con
người này là ai ?
Họ là những
người kính tin giáo Pháp của ĐỨC PHẬT phát nguyện làm công hạnh Tự Giác- Giác
Tha, Tự Độ Độ Tha… Họ là những người ở trên các miền quê hương đất Việt đều là
con cháu rồng tiên cung chung một huyết thống Lạc Hồng thương yêu nhau trong
tình huynh đệ một nhà.
2-Họ từ đâu
tới ? và tìm cầu điều gì nơi đây ?
Họ Từ Thủ đô
Hà Nội, Từ Sài Gòn « Hòn ngọc Viễn Đông » từ những nơi đầy đủ phương
tiện dễ dàng.Họ không phải là những kẻ cầu bơ cù bất thất học, mà đều được đào
tạo qua các hệ chính thức của Giáo hội Phật Giáo và Nhà nước. Những đệ tử trung
kiên của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN muốn cho muôn chúng sinh ở những miền ơi xa xôi
hẻo lánh đều được ân hưởng ánh Hào Quang của TAM BẢO. Họ không hề tiếc công sức
mình để làm công hạnh : « cứu khổ chúng sinh là cúng dường
PHẬT »
Họ cũng là những công dân tốt bất cứ ở
đâu và khi nào cũng chấp hành đúng các chủ trương chính sách của nhà nước. Sẵn
sàng dùng mọi phương tiện, nhân lực, tài vật lực… đi cứu giúp những nơi khó,
khổ, nguy làm từ thiện không phải chỉ như những người chỉ nói mà không làm,
hoặc chỉ làm với tính chất cầu danh :
« Người khẩu thuyết
năng hành nên đắc dụng
Ích gì đâu hỡi chàng Két đa
ngôn ? »
3-Họ có điên
khùng không mà chịu nằm trên « nền lều » mấp mô gồ ghề « như
trải đá » vậy ? Không nhũng người này không điên khùng mà họ luôn « GIÁC NGỘ » tnhr thức
làm theo lời dạy của ĐỨC PHẬT « Tinh Tấn giữa đám người buông lung. Tỉnh
Giác giữa đám người ngủ mê. KẺ TRÍ như con Tuấn Mã bỏ lại sau những con ngựa
gầy hèn. »
Họ luôn nghiên
tầm những diệu phương huyền bí của các bậc tiền bối để cứu giải bệnh tật của
nhân sinh. Nơi nào hữu duyên thì họ lưu lại làm công việc « CỨU TRỢ VÔ
THỜI HẠN » Nếu nơi nào vô duyên phước ;
« Việc hay không biết quay thành
dở
Điều dở lầm mê trở thành hay ? »
Mà nảy sinh tà
kiến tốt bảo xấu hay bày ra dở thì họ cũng sẵn sàng làm.
« Cánh Nhạn tung bay
vút chân trời »
b- Câu thơ : « Chỉ tịnh trưa: nằm võng không đưa, » từ « Chỉ tịnh » là nói việc các vị
xuất gia TU hành sau giờ ngọ trai ngừng công việc để nghỉ trưa cho yên tĩnh.
Người nào không nghỉ có làm việc chi cũng không được ồn ào phát ra tiếng động
lớn.
Những từ
« nằm võng không đưa » nghe có vẻ lạ tai ca dao Việt Nam có
câu :
« Đố ai nằm võng không
đưa ?
Đố ai lừa xẻ kéo cưa một
mình ?... »
ĐỨC PHẬT dạy
các để tử tu hạnh xuất gia là khi đi đứng không được vung chân vung tay
« đánh đàng xa » quá cao người ngoài trông vào thấy điệu bộ thô tháo
chê cười là « mất oai nghi » !... nên khi nằm võng cũng không
thể đong đưa tít mù mà hát « ầu ..ơ » như chị hát ru em !...
(8) – Hai câu : « HỶ TÚC đạm
bạc vui biết đủ,
THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
Hai câu thơ
này là lấy ý của đoạn thơ trong bài « Bóng Nhạn lưng trời »
« ĐẠI TỶ PHÚ hơn ngàn nhà Tỷ Phú,
HẠNH THIỂU-DỤC
TRÌ-TÚC quí đẹp sao,
Giàu PHÚC-TUỆ công đức như núi tụ,
Luôn xả ra , bố thí chẳng vơ vào »
Trước đây khi
ở Núi Thị Vải tỉnh Bà rịa Vùng Tàu HÀNH-GIẢ có viết :
« THIỂU DỤC kham khổ vui đạm bạc
TRI TÚC thanh bần thấy thanh cao »
(Bài “ Tịnh
Thất Non Thị Vải ” – 1992 )
Giờ đây đang ở trong “nền lều như trải đá” bên
bờ suối miền cao nguyên trong kỳ đi “Cứu trợ vô thời hạn” lần này HÀNH-GIẢ lại
viết:
« HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
“THIỂU DỤC” – ít ham muốn chẳng tranh đua chạy
theo những dục vọng tầm thường của thế gian.
“TRI TÚC” – là luôn biết đủ, không sợ thiếu
thốn gì?
“HỶ TÚC” – là luôn biết đủ rồi lại thường vui trong mọi
lúc mọi nơi.
Hồi ở Núi
Thị Vải nói: “THIỂU DỤC” và chịu đựng “kham khổ” trước, rồi thực hành công
hạnh “TRI TÚC” (biết đủ) với nếp sống
“thanh bần” mới “thấy” được thanh cao!
Lần này vừa
mới tới An Thạch, Hành-Giả liền nói:
« HỶ TÚC đạm bạc vui biết đủ,
THIỂU DỤC đường TU thích thanh cao »
Bởi “HỶ TÚC” (thường vui biết đủ) cho nên việc sinh hoạt đơn giản, đạm bạc không cho
là “phải kham khổ”, “ Phải thanh bần ” mà luôn được “ăn sang” “ sài sang”
“ Thường ăn lộc búp cây Vạn-tuế
Tư-sản Hoa Kỳ được ăn không?(2)
Con “Đại tỷ phú” xài sang thế!
Ăn sang” mà chẳng tốn mấy đồng!”
Có nhiều
thứ còn sung mãn dư thừa hơn cả các nhà tư sản kếch sù trên thế giới:
“ Giàu trăng giàu gió hơn Tỷ
phú,”
Đã “HỶ TÚC” (thường
vui biết đủ) rồi thì việc thực hành công
hạnh “THIỂU DỤC” là thấy nhẹ nhàng thanh thản vui ưa đời sống TU HÀNH đạm bạc thanh bần mà “thích thanh cao ” ĐỨC PHẬT cũng chẳng bắt “phải
thanh cao ” “muốn” “ ưa ” “ vui ” “thích” thì sướng! “Bắt” “Phải” thì “Khổ”
“Muốn TU” “Thích TU” thì HAM HỌC vui HÀNH được an lạc sung sướng, dù khó khăn
gian khổ dến đâu cũng quyết vượt qua, quyết làm cho được.
“Bắt TU” “Phải TU” thì không học chẳng
thích hành chi hết, thật là khổ sở gặp khó khăn trắc trở liền chán nản thoái
lui!...
(9) Câu
thơ: “ Giàu trăng giàu gió hơn Tỷ phú,”
Là có ý nhắc tới bài
“Lên non Thị Vải -Nói chuyện gió trăng” có những câu:
“ Trăng Chế Lan Viên tình bát ngát,
Hỏi Vũ Thị Thường có ghen
không ?(3)
Tiên Ông Lý Bạch say MỘNG
NGUYỆT
Đáy nước mò trăng lạc thủy cung”
Thấy “ Mùa
đông miền Bắc đêm lạnh buốt ”
Nên “ Gởi
gió đây về ấm áp hơn ”
Thương các
chú bộ đội đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương phía tây Tổ quốc , như thương
chính than mình phải chịu đựng mười năm trời trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
trước đây, mùa hè phải chịu những đợt gió tây ngột ngạt nóng bức:
“ Gió Lào tháng nực thiêu
bỏng rát
Gian khổ ai
bằng lính Trường Sơn ”
Muốn gởi “
gió biển Vũng Tàu ” về cho vơi bớt phần gian khổ.
Từ nơi
“Chùa Tổ Tây Ninh miền nắng cháy” thoắt “đằng vân” bay về thưởng ngoạn “ trăng
thanh YÊN TỬ ” rồi liền dụng pháp “khinh công” (như các lạt ma Tây Tạng) lướt
gió tới “ Hòn Ngọc Viễn Đông ” ( Tại Chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh, Quận 3 )
để thưởng nguyệt nghênh phong trong bầu không khí nóng Sài Gòn chờ đón:
“ Gió biển Vũng Tàu qua Long Hải”
Với “ Gió Động Linh Phong mát ru người”
Tới đâu
cũng thấy: “ Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy ”
Để rồi: “
Chia khắp muôn nơi nguyệt vẫn tròn”
Ta hãy đọc
liên tiếp cả bốn câu này:
“Chùa Tổ Tây Ninh miền nắng cháy”
Trăng thanh YÊN TỬ
nóng SÀI GÒN”
Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy
Chia khắp
muôn nơi nguyệt vẫn tròn”
Có ai làm
phép tính kỳ lạ như vậy không? Một chiếc bánh Trung Thu đem chia cho nhiều
người chiếc bánh còn nguyên không?
“Chuyện Trăng ”, “ Mang Gió” trang
trải “ Khắp muôn nơi”? nơi nào cũng “nhận được” vầng trăng rằm sáng đẹp, cùng
những ngọn gió mát lành sung mãn… thế mà vẫn còn dư thừa.
“ Gió dư tạm gửi vào Động Đá
Trăng thừa
đem cất để dành trăng”
Trên đời có mấy ai đã được thưởng thức
những điều hay của gió vẻ đẹp của trăng như HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG để tâm hòa nhập
với:
“ Ngọn gió an nhiên không
thể trói
Vầng trăng
tự tại chẳng dễ xiềng ”
ĐỨC PHẬT có
mỉm cười bảo đệ tử:
“ Nghêu ngao đàm tiếu e tội lỗi
Gởi gió
chia trăng chuyện bong phèng!” (?)
Trên thế
gian này có mấy người đã thật sự được thưởng thức gió trăng sung mãn thanh
thoát tuyệt diệu hay chưa? Phải chăng chỉ có con của bậc ĐẠI TỶ PHÚ THÍCH CA
MÂU NI PHẬT mới có thể được tận hưởng như vậy! cho nên nói rằng:
“ Giàu trăng giàu gió hơn tỷ
phú”
Cũng không
phải là quá đáng: “ Tụng kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO ”
Câu thơ này
lấy ý trong đoạn thơ:
“ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
Kệ đẹp vui thanh thoát mãi mai sau
Giải muôn việc khắp ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc VĂN-HÀO.”
( Bài “Bóng Nhạn lưng trời” )
Tạm lược giải hai câu:
“ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
Kệ đẹp vui thanh thoát mãi mai sau”
Ở trần gian các thể loại văn vần gọi là thơ như thơ
ngũ ngôn, thơ lục bát, thơ thất ngôn, thơ bát ngôn.v.v. Trong PHẬT PHÁP gọi là
kệ. Những bài kệ, những câu kệ của ĐỨC PHẬT, của chư vị BỒ TÁT, của các bậc THẦY
TỔ truyền dạy đạo pháp cho đệ tử ý tứ lời lẽ còn súc tích thâm thúy cao siêu
hơn rất nhiều những vần thơ của thế gian.
Có nhiều thể loại kệ như : “Kệ ngũ ngôn” “Kệ cô khởi”
, “ Kệ Trùng tụng”, .v.v.
Lấy vài ví dụ:
- “Kệ ngũ ngôn” như khi ĐƯC PHẬT giảng “ĐẠI THỪA KIM
CƯƠNG KINH LUẬN”
Xong muốn cho đệ tử dễ hiểu dễ nhớ ĐƯC PHẬT đã đúc kết
gọn lại trong 4 câu kệ:
“
Nếu có nam hay nữ
Gặp được chân MINH SƯ
TU HÀNH được chính pháp
Không ai chẳng thành PHẬT ”
ĐƯC PHẬT lại dạy một bài Kệ ngũ ngôn về hạnh Khất Sĩ:
“ Nhất bát thiên gia phạn
Cô than vạn ly du
Dục cùng sinh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu ”
Tạm dịch nghĩa:
“
Hành đạo đi muôn nơi
Một bát cơm ngàn nhà
Biển luân hồi sâu thẳm
Hóa độ khắp gần xa ”
ĐƯC PHẬT dạy bài Kệ tránh nghiệp sát sinh thì sẽ hóa
giải tận gốc chiến tranh theo thể thất ngôn tứ tuyệt:
“
Nhất thiết chúng sinh vô nghiệp sát
Thập phương hà xứ đụng đao binh
Gia gia xứ xứ đồng TU THIỆN
Thiên hạ hà sầu bất thái bình ”
Tạm dịch nghĩa:
“ Tất cả chúng sinh không giết, sát
Mười phương không thể có chiến tranh
Khắp xứ mọi nhà đều TU THIỆN
Thế giới làm sao chẳng Hòa Bình ”
Hoặc bài Kệ Thị-Tịch của QUỐC SƯ VẠN HẠNH làm theo thể
“thất ngôn tứ tuyệt tứ cú tam vận”
“ Thân như điển ảnh hoàn vô
Mộc thịnh xuân vinh hoa hữu khô
Nhâm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
Thượng tọa Thích Mật Thể dịch nghĩa thành thể kệ lục
bát:
“
Thân như bong chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu hoa rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành ”
v.v.. và vv…
Đọc những
vần thơ nói về thế gian phần nhiều là chỉ quẩn quanh rang buộc, hoặc là “thoát
ao vào chuôm” hoặc là “ tránh vỏ dưa(trơn trợt) gặp vỏ dừa (dai quấn)” không thể
dứt trừ được những phiền não khổ đau …
Những
bài kệ, những câu kệ của ĐỨC PHẬT, của chư vị BỒ TÁT, của các bậc THẦY TỔ chỉ dạy
làm lành lánh ác đưa con người tới an lạc giải thoát mãi tột đời vị lai.
“
Kệ đẹp vui thanh thoát mãi về sau ”
Lược giải tiếp hai câu:
“Giải muôn việc khắp ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc VĂN-HÀO.”
Những người viết truyện ngắn truyện dài, tiểu thuyết,
phê bình, tiểu luận, biên khảo, …
Tùy theo mức độ nổi tiếng trong nước hay trên thế giới
mà được gọi là “nhà văn” “văn sĩ” “ Văn Hào dân tộc ” hay “ Văn hào thế giới ”
ĐƯC PHẬT
là BẬC NHẤT-THIẾT-TRÍ THẾ-GIAN-GIẢI đã thông hiểu mọi qui luật vận hành toàn thể
vũ trụ. Ngài là GIÁO CHỦ cõi Ta Bà gồm ba ngàn triệu hành tinh như trái đất
chúng ta đang ở. Những điều ĐƯC PHẬT nói về vũ trụ quan, thế giới quan, nhân
sinh quan và truyền dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn TU-GIẢI-THOÁT.V.V.
Phần ghi chép lại bằng văn xuôi gọi là “Kinh” phần được
thu gọn lại theo một thể loại nhất định gọi là “ Kệ ”. Tất cả Giáo Pháp của PHẬT
gọi là “Thiên kinh” “ Vạn kệ”
Các Nhà Văn, Thi Sĩ
ở thế gian chỉ viết văn làm thơ nói về những sự việc của thế gian mà
thôi!... Nghe đọc mấy câu:
- Nam Mô Thập phương thường trụ PHẬT
- Nam Mô Thập phương thường trụ PHÁP
- Nam Mô Thập phương thường trụ TĂNG
Chúng
ta đã thấy được vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan của Phật giáo.
Hơn 25
thế kỷ trước đây ĐỨC PHẬT đã dạy các đệ tử khi uống nước phải trì niệm bài kệ:
Ẩm thủy
“
Phật quán nhất bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sinh nhục”
Án! Phạ tất ba-ra ma-ni ta-ha ( 3lần
) »
Tạm dich nghĩa :
Uống Nước
«
ĐỨC PHẬT thấy trong một bát nước
Có tám vạn bốn ngàn vi trùng
Nếu không thọ trì kệ chú này
Cũng như ăn thịt các chúng sinh
Án! Phạ tất ba-ra ma-ni ta-ha ( 3lần ) »
Các nhà
Bác Học trên thế giới mới phát mih ra kính hiển vi soi thấy có vi trùng được mấy
trăm năm gần đây. Đức PHẬT đã biết rõ tất cả qui luật vận hành của vũ trụ, cùng
các hiện tượng về nhật thực nguyện thực : trong Kinh Đại Bát Niết Bàn ĐỨC PHẬT có dạy Ca Diếp Bồ Tát:
«
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như xứ nầy thấy mặt trăng tròn, phương khác thấy mặt trăng
khuyết, phương nầy thấy mặt trăng khuyết, phương khác thấy mặt trăng tròn.
Người Diêm-Phù-Đề nều thấy bắt đầu có mặt trăng nói là ngày mùng một, tưởng là
đầu tháng. Lúc thấy trăng tròn, nói là ngày rằm. Nhưng mặt trăng thiệt không có
khuyết với tròn, vì bị che chướng mà có thêm bớt.”
(Xem Kinh Đại Bát Niết Bàn phẩm “ nguyệt dụ ”)
Vũ trụ quan, thế giới
quan, nhân sinh quan của thiên chúa giáo không đúng đắn với sự thật họ muốn bắt
quả đất phải vuông và phải đứng yên một chỗ không được xoay chuyển.
“ Ai ép buộc đẽo vuông thành Trái đất
Ai bắt quả địa cầu phải
đứng yên
Ai lừa dụ, phỉnh phờ
che sự thật
Ai dối mình gạt người lắm
kẻ tin”
( Trích trong bài “ Đắc
nhân tâm, thất nhân tâm”)
Và dung quyền lực giết chết
một cách tàn bạo nhà Vật lý học GA-LI-LÊ người đã tìm ra quĩ đạo vận chuyển của
trái đất xung quanh mặt trời. Đồng thời tự quay theo một quĩ đạo riêng của
chính nó là một chứng minh hùng hồn những điều về vũ trụ quan mà ĐỨC PHẬT đã giảng
trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn” hai ngàn năm
trước đó.
Với kiến thức khoa học ngày nay không
thể che đậy bưng bít những sự thật quá hiển nhiên được nữa, cho nên thời gian
gần đây Giáo-hội Thiên-Chúa-giáo đã phải
xin lỗi Thế giới về sự sai lầm trong việc giết chết, oan uống nhà Vật lý học
Galile
Bàn luận những điều ĐỨC PHẬT đã giảng
dạy trong KINH KỆ chúng ta có thể nói gọn trong bốn câu:
“ĐẠI- THI- HÀO vượt trên ngàn thi sỹ,
Kệ đẹp vui thanh thoát
mãi mai sau
Giải muôn việc khắp
ĐÔNG-TÂY KIM-CỔ,
ĐẠI-VĂN-HÀO hơn ngàn bậc
VĂN-HÀO.”
Khi nghiên cứu KINH ta gọi
là “Đọc kinh” hay “Tung Kinh” khi thưởng thức thi kệ gọi “Ngâm thơ” “ngâm Kệ ”
hay “tán kệ” thường nghe nói:
“ Tung ba tháng tán ba năm”
Để rồi càng gói gọn lại trong câu;
“
Tung kinh ngâm kệ ĐẠI THI HÀO ”
Đoạn thơ bốn câu:
“GIA LAI, AN-KHÊ thôn An Thạch,
Lễ rằm mấy người tới cúng dường,
Sơn thần thành kính dâng cúng PHẬT
Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
Nguyên xuất xứ lúc ban đầu của khổ thơ này làm theo thể thơ “Thất ngôn
tứ tuyệt, gối hạc” như vầy:
“ Bồ Tát kỳ đầu
miền An Thạch
Thiện nam tín nữ tới cúng dường
Sơn Thần thành kính dâng cúng PHẬT
Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương ”
Đức PHẬT dạy các đệ tử xuất gia TU HÀNH dù ở đâu mỗi tháng cũng thọ trì
đều đặn 2 kỳ tụng giới vào ngày rằm giữa tháng và ngày cuối tháng (phép tụng
giới gọi là Bồ Tát)
“ Một tháng hai
kỳ thường BỒ TÁT
GIỚI LUẬT không thông lấy gì TU ?”
Trong giới kinh ĐỨC PHẬT có dạy:
- Khi làm lễ BỒ TÁT người nào đã thọ giới mới được thính (nghe) giới. Ai
thọ giới trước ngồi trước, ai thọ giới sau ngồi sau. Người nào chưa thọ giới
không được thính (nghe) phần giới pháp mình chưa thọ. Cũng như người học bậc sơ
cấp chưa được nghe giảng của bậc trung cấp hoặc cao cấp, khi không hiểu được
lại sinh nghi ngờ nảy sinh tà kiến, đàm tiếu lung tung mà mang tội.
Nhớ lại đợt đi “CỨU TRỢ ”
tại vùng kinh tế mới xã Nam
dong huyện Cư dút tỉnh Đắc Lắc tháng ba tháng tư năm Mậu Dần (1998). Nhiều
người chưa thọ pháp Tam qui ngũ giới là bước đầu tiên của người Phật Tử tại
gia. Ngày rằm tháng ba khi làm lễ BỒ TÁT có hai người đã thọ giới BỒ TÁT tại
gia được ngồi lại thính giới, những người chưa tho giới đều được mời ra ngoài.
Trong số này có một người tên là Trần Thị Xiên quê ở Hà Tĩnh trưa hôm đó đã xin
cúng cơm cho vong linh của người con trai mới chết trước đó ba tuần lễ (cúng ba
thất). Bởi vì không biết nghi thức cúng của MẬT TÔNG là hành trì theo pháp “
TAM MẬT TƯƠNG HƯNG ” gồm có:
1- Thân Hành Phật Hạnh ( Tay
kiết ấn như ĐỨC PHẬT kiết ấn )
2- Khẩu Niệm Phật Ngôn ( Miệng tụng thần chú của PHẬT )
3- Ý Niệm Phật Ý (
Tâm ý quán tưởng PHẬT cứu độ chúng sinh)
Thị Kiên không hiểu các pháp MẬT TÔNG của PHẬT lại không chịu thỉnh hỏi để được nghe giảng giải cho thông hiểu
lại nảy sinh tà kiến cho là “Đồng Bóng” liền viết đơn tố cáo gửi lên công an và
ban đại diện PHẬT giáo của huyện Cư jút.
Vì không có chư tăng làm việc lại để cho hai người thế gian là TRÍ và
Dũng tới hạch sách đòi xét giấy tờ của chư Tăng và hủy bang mạt sát ngôi TĂNG
BẢO còn thậm tệ hơn vô thần và ngoại đạo! (phải chăng “điếc không nghe sung nên
không sợ” không hiểu luật nhân quả, không biết việc phạm tội nảy sinh tà kiến
và tội hủy bang TAM BẢO phải chịu quả báo khổ mãi đọa lạc trong tam đồ như thế
nào?...)
Làm lễ BỒ TÁT trong rừng
An Thạch kỳ này…nếu không phương tiện để cho họ được thính (nghe) pháp thì họ
lại nổi “Bồ đề gai” lên như hồi ở vùng kinh tế mới Nam Dông huyện Cư jút tỉnh
Đắc Lắc….
…Khi tung giới BỒ TÁT xong phần CÚNG NGỌ có tụng thần chú “ diệu sắc
mani PHỔ CÚNG DƯỜNG” Tiếng Phạn rồi thọ trai…
Buổi sang ngày hôm sau
nghe chú Bảy Tài Trưởng thôn An Thạch là người sốt sắng nhất trong việc làm các
thủ tục hành chính cho hợp lệ và chú Năm Sương ở trong thôn ra thuật lại rằng:
- Chú Ba Tèo nói rằng: “
Ông Thầy này không phải người TU ĐẠO PHẬT tụng cái chi lạ lắm nghe chẳng giống
ai cả! những cuốn KINH CỦA PHẬT ở Chùa tôi đã tụng hết cả rồi không có kinh nào
như Ông Thầy này Tụng!... ”
Thương Ôi! Một người chưa
được thọ pháp Tam Qui Ngũ Giới dám mở
miệng xưng hô là đã tụng hết cả tám van bốn ngàn KINH PHÁP của PHẬT rồi ? lại
lớn lối lên giọng khinh chê một vị TĂNG thọ trì TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI của ĐỨC
PHẬT hai chục năm trời! phải chăng là:
“ Kẻ mù mắt lại
khinh người sang mắt
Người mắt tinh thật xót kẻ đui mù”
Và “ Xót người
không biết không cầu học
Chưa thông không chịu học cho thông
Nảy sinh tà kiến … bày moi móc!
Tội xây thành Núi Phước đổ song!...”
Càng thấy tội nghiệp xót xa:
“ Việc hay
không biết quay thành dở
Điều dở lầm mê trở thành hay?!
Hủy báng TAM BẢO Không biết sợ
Nghiệp chướng chẳng vơi kết thêm dày ”
Để nói cho sát với thực tế những sự việc của đợt đi “ CỨU TRỢ VÔ THỜI
HẠN” lần này, cho nên HÀNH GIẢ phải sửa lại đoạn thơ trên từ câu:
“Thiện nam tín nữ tới cúng dường”
Thành câu “ Rằm lễ đầu mấy người tới cúng dường”
Kẻ được thấy nghe hành
trì kinh pháp của PHẬT mà không hiểu không tin lại còn sinh lòng hủy bang TAM
BẢO thì làm sao còn có thể gọi là “Thiện-Nam” thì làm sao còn có thể gọi là
“Tín-Nữ” được? Ví như ở thế gian đã phạm tội làm gián điệp chống phá nhà nước
tất nhiên phải bị pháp luật nhà nước nghiêm trị trong tội.
Kẻ đã phạm tội hủy bang TAM BẢO làm sao có thể trở thành một Phật Tử
trung kiên hộ trì TAM BẢO được? Có chăng nó sẽ biến thành một loại “ Sư Tử
Trùng” để “Thực sư tử nhục” cắn chết Sư Tử Vương Phật Pháp
“ Sư tử trùng
cắn nát than sư tử
Không phải cọp beo dữ phá ở bên ngoài!”
Làm sao những “sư tử trùng” đó có thể ân hưởng được sự gia hộ thậm thâm
vi diệu của TAM BẢO được.
Bởi vậy sau ngày rằm
HÀNH-GIẢ phải sửa lại khổ thơ từ thể “ thất ngôn tứ tuyệt gối hạc ” thành thể “
bát ngôn tứ tuyệt gối hạc” là:
“GIA LAI, AN-KHÊ TÚ AN, AN THẠCH
Rằm lễ đầu mấy người tới cúng dường,
Chư Sơn-Thần thành kính dâng cúng PHẬT
Những Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
Mấy ngày sau khi viết chú thích, đọc đi đọc lại nhiều lần, thấy mỗi câu
tám chữ có vẻ hơi rườm rà nên HÀNH-GIẢ rút bớt mỗi câu một chữ cho gọn lại là:
“GIA LAI, AN-KHÊ… thôn An Thạch,
Lễ rằm mấy người tới cúng dường,
Sơn thần thành kính dâng cúng PHẬT
Hoa rừng thanh khiết ngát thơm hương”
(79a) Danh từ “ Kẻ Tà Kiến” để chỉ cho người hiểu lệch lạc, sai lầm về
một vấn đề nào đó trái ngược với “người chính kiến” hiểu biết nhìn nhận và đánh
giá sự việc một cách khách quan, chân thật và đúng đắn. Ở bất cứ môi trường nào
vấn đề nào cũng có hai mặt: chính diện và phản diện, chính kiến và tà kiến PHẬT
và Ma;
“ PHẬT luôn cứu
độ, Ma cản phá
Nơi ào có PHẬT cũng có Ma ”
Ở đây chỉ xin nói về việc có một số người nhìn nhận ,
hiểu và đánh giá lệnh lạc sai lầm rồi nảy sinh Tà kiến phủ nhận những điều tốt
đẹp cao siêu của PHẬT PHÁP! Chúng ta hãy nghe Luật Sư DIỄN BỒI giảng về phần
“Tà kiến” của giới thứ 10 trong “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ” do
Hòa Thượng Luật Sư Thích-Trí-Minh dịch từ Hán văn ra Việt văn:
Tam Bảo tức là chiếc đò rộng lớn đưa
người ra khỏi nẻo tà:
- Là yếu môn đi vào Phật đạo.
- Là cảnh thù thắng cho người sơ phát tâm.
- Là chỗ cùng tột của tất cả những ai muốn nương về.
- Là chiếc thuyền từ đưa chúng sanh qua bể khổ.
- Là ngọn minh đăng soi sáng trong đêm trường hắc ám.
- Là trận mưa to lúc ngôi nhà lớn đang hỏa hoạn.
- Là yếu môn đi vào Phật đạo.
- Là cảnh thù thắng cho người sơ phát tâm.
- Là chỗ cùng tột của tất cả những ai muốn nương về.
- Là chiếc thuyền từ đưa chúng sanh qua bể khổ.
- Là ngọn minh đăng soi sáng trong đêm trường hắc ám.
- Là trận mưa to lúc ngôi nhà lớn đang hỏa hoạn.
Vì thế, tất cả mọi phương diện, tất cả chúng
sanh đều phải nhất tâm thừa sự, kính thuận và thân cận cúng dường, mong cho
ngôi Tam Bảo trong thế gian được mãi mãi hưng thạnh, làm chỗ nương nhờ an ổn
cho chúng sanh. Nếu đã không làm được như vậy, lại còn cực lực hủy báng Tam
Bảo, là tự mình chuốc lấy tai họa thâm sâu và làm hại cho tất cả mọi người, làm
đoạn tuyệt tất cả hạt giống trong ngôi Tam Bảo. Tội ác này lớn biết dường nào,
vì vậy mà kết thành căn bổn trọng tội!
Ðề mục giới này gọi là hủy báng, chính là sự
chống trái, tự mình không minh bạch chút đạo lý nào, không có tri kiến chính
xác, rồi đối với Tam Bảo vọng sanh chê bai, bàn luận hoàn toàn không đúng sự
thật, nên gọi là hủy báng.
Tam Bảo là phước điền mầu mỡ, đem lại lợi ích
cho tất cả chúng sanh, đáng lẽ không được hủy báng. Nhưng chúng sanh sở dĩ hủy
báng Tam Bảo là do tà kiến xúi giục.
Tà kiến là sự sai lầm của tư tưởng. Khi một
người có tư tưởng sai lầm thì bất cứ điều gì họ cũng cực lực bài bác, không
thừa nhận. Phật pháp nhận định rằng những tội lỗi do tư tưởng sai lầm sản sinh,
so với tất cả những tội khác thì nặng hơn hết. Tà kiến nói ra thì rất nhiều,
nhưng chư cổ đức quy nạp lại một cách đại khái gồm có bốn loại sau đây:
1. Thượng phẩm tà kiến: loại tà kiến này phủ
nhận mọi hành vi đạo đức. Căn bản là bài bác luật nhân quả của thiện ác nghiệp.
Không thừa nhận bất cứ thuyết thiện nhân, thiện quả hay ác nhân, ác quả nào,
như hạng nhất-xiển-đề thuộc loại tà kiến thượng phẩm này.
(Nhất-xiển-đề, Trung Hoa dịch là Bất Tín. Nghĩa
là không tin Phật pháp. Kinh Niết Bàn quyển năm nói: “Những người không có tín
tâm với Tam Bảo gọi là nhất-xiển-đề”).
2. Trung phẩm tà kiến: thứ tà kiến này không
thừa nhận Tam Bảo có công đức thù thắng hơn ngoại đạo, thậm chí còn nói Tam Bảo
không bằng ngoại đạo là khác.
Nếu loại chấp trước sai lầm này uẩn súc trong
nội tâm đã thành thục rồi hủy báng Tam Bảo thì phạm căn bổn trọng tội, luôn cả
giới thể cũng bị mất. Nếu nội tâm đã thừa nhận Tam Bảo là thù thắng hơn ngoại
đạo, nhưng chỉ ở đầu lưỡi rao nói Tam Bảo không bằng ngoại đạo. Vì chưa bỏ
Chánh Ðế theo hẳn Tà Ðạo, dù là phạm căn bổn trọng tội, nhưng giới thể không
hoàn toàn bị mất. Nhưng nếu một lần nói Tam Bảo không bằng ngoại đạo thì kết
trọng tội một lần. Nói nhiều lần thì kết trọng tội nhiều lần. Vì thế, tội hủy
báng Tam Bảo này không nên tùy tiện nói càn.
3. Hạ phẩm tà kiến: các Phật tử thọ Bồ Tát giới,
tu học pháp Ðại Thừa, phải thú hướng đến Ðại Thừa, là mục đích duy nhất của
mình. Về sau nếu bỗng nhiên biến cải ý niệm của mình, buông bỏ bổn nghiệp Ðại
Thừa cần phải học tập của mình, để chuyên tâm nhứt ý học theo pháp Tiểu
Thừa.
Nếu thứ pháp chấp trước này đã thành tựu trong
nội tâm thì phạm căn bổn trọng tội, và mất hẳn giới thể của Bồ Tát.
Nếu thứ chấp trước này chưa thành tựu trong nội
tâm, thì chỉ thuộc về giới có tâm trái bỏ Ðại Thừa, trong phần các giới
khinh.
4. Tạp loại tà kiến (tà kiến tạp nhạp, gặp thứ
nào cũng tin): Chia làm nhiều trường hợp.
* Chấp Ðại Thừa hủy Tiểu Thừa: cho rằng Bồ Tát
học pháp Ðại Thừa, chỉ cần thành thật học pháp Ðại Thừa là đủ. Với giáo pháp
tương ứng Thanh Văn thừa, Bồ Tát không cần phải học tập, như trong Du Già Bồ
Tát Giới Bổn nói: “Bồ Tát cần chi học tập, cần gì phải nghe theo và bẩm thọ,
hành trì, tinh tấn tu học giáo pháp tương ứng Thanh Văn thừa?” Như thế sẽ phạm
tội khinh cấu “nhiễm ô khởi”.
(Lưu ý: Danh từ “nhiễm ô khởi” có rất nhiều ý
nghĩa. Ở đây có nghĩa là một thứ tội từ phiền não phát sanh).
Phải biết Phật pháp bên Tiểu Thừa dù nói là
không được rốt ráo, nhưng đây là phần cơ bản rốt ráo của Phật pháp xuất thế. Vả
lại, chư Phật trong ba đời xuất hiện ở thế gian, giáo hóa chúng sanh, không vị
Phật nào chẳng tuyên thuyết giáo pháp Tam Thừa.
Cho nên Bồ Tát đã phát Bồ Ðề tâm, đối với pháp
Ðại Thừa cần phải tu học là lẽ đương nhiên, nhưng với pháp Thanh Văn thừa cũng
cần phải học tập, để làm phương tiện độ sanh cho chính mình. Không được nói:
“Tôi đây là người Ðại Thừa, không cần học pháp Tiểu Thừa”. Nhưng nếu chỉ chấp
chặt một bên, theo pháp Tiểu Thừa không ra khỏi, cố nhiên cũng không đúng; nhưng
bài bác pháp Tiểu Thừa không chịu học tập, cũng là điều tuyệt đối sai
lầm.
Lại có người khuynh hướng thiên về sự hủy báng
một bộ kinh nào đó. Như đối với các kinh điển Ðại Thừa, bộ nào hợp với tư tưởng
của mình thì thừa nhận là Phật nói. Nếu bộ nào không hợp thì cho là không phải
Phật nói, và cho rằng bộ kinh ấy không phải của Phật giáo, mà thuộc về tà
thuyết của ngoại đạo. Chấp như vậy sẽ phạm tội khinh cấu.
Trong giới kinh nói: “Nếu Bồ Tát khi nghe nghĩa
lý thậm thâm, chân thật của Bồ Tát pháp tạng cùng với vô lượng thần thông diệu
dụng của chư Phật, Bồ Tát, mà bài báng, không tiếp thọ, nói là không có lợi ích
cho chúng sanh, không phải pháp của Như Lai nói, không thể đem sự lợi ích an
lạc lại cho chúng sanh thì vị Bồ Tát này phạm tội nhiễm ô khởi”.
Lại nữa, nếu có kẻ tín tâm không được thuần
khiết, người ấy đối với oai đức của Tam Bảo, với nghĩa lý của pháp Ðại Thừa,
luật nhân quả thiện ác, tuy có tâm thâm tín không đối nghịch, nhận chân những
lời trong kinh nói đều đúng. Nhưng đồng thời cũng cho rằng ngoại đạo, quỷ thần
cũng có oai lực của quý vị ấy, nên bảo nhau tín phụng theo ngoại đạo hoặc quỷ
thần. Thậm chí còn dùng phù chú, điệp sớ cúng tâu lên cho quỷ thần biết rõ.
Chẳng những tự mình tin hiểu, thực hành như vậy, lại còn khuyến hóa mọi người cũng
tin hiểu và thực hành như vậy.
Việc này trong thời buổi hiện tại có thể nói là
rất nhiều. Y theo giới Bồ Tát mà nói, lối tin không thuần khiết này không thể
chấp nhận và sẽ phạm tội khinh cấu.
Chúng ta nên biết, đối với tín ngưỡng, điều tối
yếu là không được phức tạp. Nếu bất cứ điều gì cũng cho là đúng, tin một cách
tạp nhạp, không phân biệt Phật, quỷ thần hoặc Bồ Tát, là trái với chánh tín của
người Phật tử, thuộc về tri kiến điên đảo, không thể gọi là người Phật tử chánh
tín.
( Trích 10. GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO KINH PHẠM VÕNG)
(79b) Hai câu: “ Kẻ
tà kiến (79a ), biến thành “Trung Sư-tử”; ” (79b)
Ai nhập bầy với lũ phá đạo kia? ”
Danh từ “ Trùng Sư-tử ” hay “ Sư- tử trùng”
hoặc có chỗ nói “
Sư-tử trùng thực Sư-tử nhục ” là lấy ý trong “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI” phần
giới khinh thứ 48 ĐỨC PHẬT có dạy:
48- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Nếu Phật tử đã do lòng tốt mà xuất gia, lại vì
danh tiếng và tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc vương và các quan,
làm các việc gông trói các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, người thọ giới Bồ Tát như cách
của ngục tù và binh nô, như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử chứ chẳng
phải trùng ở ngoài vào ăn được. Cũng thế, các Phật tử tự hủy phá Phật
pháp, chẳng phải ngoại đạo hay thiên ma phá được. Người đã thọ giới của Phật,
nên hộ trì giới luật như ấp yêu con một, như kính thờ Cha mẹ, không được hủy
phá.
Người Phật tử, khi nghe ngoại đạo hoặc người
ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật, chẳng khác nào như ba trăm cây
giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả ngàn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào
thân mình. Thà tự cam chịu vào địa ngục cả trăm kiếp, chớ không muốn nghe
lời hủy báng giới pháp của Phật, do bọn người ác xúc phạm, huống gì không có
lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo
người khác hủy phá. Nếu cố tâm phá giới pháp của Phật, thì Phật tử này
phạm tội khinh cấu.
(80) Hai câu:
“
Chẳng phân tà chính không lành dữ ?
Ai biết ác Ma quyết xa lìa ?"
Hai câu này lấy
trong “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” NGÀI ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT biết thời mạt pháp sẽ có nhiều loại Ma quỷ
giả danh là đẹ tử của PHẬT (như loài lang sói đội lốt cừu non để hãm hại hết cả
đàn cừu, cũng như loài gián điệp điêu luyện leo cao luồn sâu vào hàng ngũ cán
bộ cao cấp để phá hoại. Có cần phải truy tìm và nghiêm trị càng sớm càng đỡ gây
tổn thất cho nhà nước và nhân dân hay không ?). Những loại tà ma, quỉ quái
đó giả danh xưng là đệ tử của PHẬT PHÁP. Chúng không thực hành những điều ĐỨC
PHẬT dạy trong giáo Pháp của Ngài mà làm rất nhiều điều sai trái với PHẬT PHÁP.
Làm cho chúng sinh không thấy được những điều thậm thâm vi diệu của PHẬT PHÁP.
Trái lại thấy toàn những việc tệ hại hơn cả người thế tục làm cho người đời
chán ghét trở lại khinh chê xa lánh… không gặp được chính pháp của PHẬT. Không
hưởng được những tinh hoa của Phật Pháp, mãi mãi phải trầm luân đọa lạc trong
biển khổ sinh tử luân hồi.
Thấy biết trước tất cả những ma tà quỉ
quái đó sẽ giả danh là đệ tử của PHẬT để phá hoại PHẬT PHÁP cho nên ngài ĐẠI
TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT đã duyên khởi thỉnh hỏi ĐỨC PHẬT những điều thiết yếu
để phân biệt rõ tà chính và TU HÀNH khỏi bị lầm lạc trong “ Đại thừa KIM
CƯƠNG KINH LUẬN” mục số 23 và 24 có dạy :
23- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao
kêu là lục sư ngoại đạo?
Thế Tôn nói: Khi ta nhập diệt rồi, có
nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là
đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật,
là ngoại đạo thứ nhất. Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà
thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng
kinh cho người, không phải người tục, là ngoại đạo thứ hai. Lại có những người
trên thời không có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê
muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo,
bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời
theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba. Có người
làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần,
phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt,
là ngoại đạo thứ tư. Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận
kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt
người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm. Có người sửa soạn
hình tướng bụng trống lòng sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình
giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu
đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt
người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền,
chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả
dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc
ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo
ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
24-Sáu
hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá
hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức
tụng niệm.
Nên Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa
phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể
quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà
đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật
dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà là đồng với ma Ba
tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn,
hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.
Việc TU HÀNH đúng chính pháp của ĐỨC PHẬT vừa tự độ mình
được an lạc GIẢI THOÁT mọi khổ đau phiền não, vừa phát tâm là công hạnh độ tha
cứu độ chúng sinh . Ở thời mạt pháp này vô cùng khó khăn, nếu không được BẬC
THẦY CHÂN CHÍNH truyền dạy cho học thông bộ “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” và
không thường xuyên cầu thỉnh BẬC THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH của mình chỉ dạy những
điều PHÁP YẾU để TU học thì khó có thể tránh khỏi mọi sự ám nhập, dẫn dắt và
lôi cuốn để biến thành quyến thuộc của các loại tà ma trở lại làm tổn hại vô
lượng chúng sinh. Muốn biết rõ sự biến thiên của các loài tà ma đó như thế nào
chúng ta hãy nghiên cứu thật kỹ:
Nếu có
chúng sanh khi biên chép đọc tụng kinh điển này có bốn thứ ác ma nó làm não
loạn. Những gì là bốn thứ:
1. Là sanh lòng biếng nhác.
2. Là khởi tâm không tin.
3. Là đối chỗ của pháp sư không sanh tôn
trọng.
4. Là tâm không thường định.
Người này
liền biết đó là ma sự.
Lại nữa
có bốn nghiệp ác ma. Gì là bốn:
1. Là xa lìa thiện tri thức.
2. Là không như lý tác ý.
(Khởi tâm
không hợp chân lý)
3. Là không hiểu rõ văn tự.
4. Là chỉ thấy hiện tại, nói không vị
lai, tạo các ác nghiệp, lòng không lo sợ, nói không nhân quả.
Ta nói kẻ
đó còn làm những điều phi pháp, ưa quản tục vụ, tham nhiễm ràng buộc, chúng
sanh như thế sẽ đọa địa ngục, trải vô lượng kiếp, chịu đại khổ não.
Lại nữa
có bốn thứ ma. Gì là bốn:
1. Là tham đắm tiền tài vật chất.
2. Là gần gũi bạn ác.
3. Là chướng ngại pháp sư.
4. Là đối pháp sư thuyết pháp hay tìm
vạch lỗi lầm.
Những
chúng sanh ấy do nghiệp ác này cho nên sẽ chịu nghèo cùng khốn khổ. Không thấy
bạnh lành, xa lìa tôn sư, khởi tướng tà kiến, nói không nhân quả. Phải đọa địa
ngục chịu nhiều kịch khổ.
(“KINH NHẤT
THIẾT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG”Bộ Mật Tông Trang 749-750)
Nghiên cứu “ Đại
thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN” chúng ta đã được ĐỨC PHẬT trang bị cho một “KÍNH NHÃN
QUANG CHIẾU YÊU” để thấy rõ chân tướng
của ma ba tuần biến thành “Lục sư ngoại đạo ” và “ Ngũ Ấm ma” là năm loài ma ham đắm ngũ dục; Tài, Sắc,
Danh, Thực, Thùy( ngủ, nghỉ, chơi bời) rồi trong “KINH NHẤT THIẾT CÔNG ÐỨC
TRANG NGHIÊM VƯƠNG” ĐỨC PHẬT chỉ cho chúng ta biết rõ 12 loài ác ma
khác nữa. Mỗi người tự soi xét xem mình có“nhập bầy”với loại nào trong các loại
ác ma đó không?
(91) Hai câu:
“
Ai chưa đắc QUYẾT HỌC HÀNH CHỨNG ĐẮC
Ai chưa thông QUYẾT RÈN LUYỆN TINH THÔNG”
Hai câu này lấy ý trong “ Đại thừa KIM CƯƠNG KINH LUẬN”
lời ĐỨC PHẬT dạy:
35 - Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng:
Ta cũng từ chỗ phát tâm trai giới trong sạch mà đặng, ta cũng từ chỗ chân thật
mãi mãi không lui sụt mà đặng. Ta cũng từ chỗ lập nguyện rộng lớn, nguyện ra
khỏi thế gian mà đặng, ta cũng từ chỗ lập chí bình đẳng chẳng luận bà con hay
là người dưng mà đặng. Ta cũng từ chỗ hạ tâm thấp hèn cầu thầy học hỏi mà đặng,
ta cũng từ chỗ từ bi nhẫn nhục mà đặng, ta cũng từ chỗ tinh tấn giải thoát mà
đặng. Ta cũng từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học cho đến ta
cũng từ chỗ học hết thảy các giống trí huệ mà đặng.
(92) Hai câu:
“
Ai chậm tối ngây khờ như BÀN ĐẶC
THẬT QUYẾT TU đạo quả cũng thành công”!
Hai câu này nói về tấm gương sang ngời đời đời kính phục;
của một người từ nhỏ bản tính quá ư chậm tối ngây khờ “ngu lâu khó đào tạo” mà
quyết tâm chăm chú THẬT HỌC THẬT TU đã thành công rực rỡ . Chúng ta hãy đọc mấy
trang sách “ GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY ” này sẽ hiểu rõ.
Bạn sẽ “có được cái nghiệp đẹp đẽ,” điều này không những
ám chỉ cái đẹp vật lý mà còn ám chỉ đạo đức trong sạch. Đạo đức trong sach
không làm cho thân thể đẹp, nhưng đối với chư Phật và Bồ tát thì đấy là cái gì đẹp
nhất. Đức Tsongkapa vĩ đại có nói
Những
người biết phân biệt pháp mặc áo khiêm cung
Đây là
đạo đức, không phải hàng đẹp
Biện
tài, trang hoàng cổ họ, không phải chuỗi anh lạc
Bậc
thầy là ngọc quý, không phải ngọc nào khác.
“Được sanh lên
thượng giới” phải hiểu là các cõi Phật.
Bậc thánh Chùdapantaka (Chu lợi bàn đà dà) chứng quả A la
hán nhờ lau nhà. Tôi sẽ kể cho các bạn câu chuyện về ngài.
Trong thành Xá vệ ngày xưa có một người bà la môn sanh
đứa con nào cũng chết khi vừa mới chào đời. Có một bà già lân cận bảo: “Lúc nào
có đứa nữa, thì hãy gọi tôi.” Sau đó người bà la môn sinh một bé trai, ông liền
gọi bà già. Bà bảo ông ta tắm rửa cho đứa bé, quàng cho nó một tấm vải trắng và
nhét bơ đầy miệng rồi giao nó cho một cô gái săn sóc. Bà lại bảo người bà la
môn nhờ cô gái ẳm thằng bé đến nơi ngã tư đại lộ và phải kính lễ khi gặp một vị
sa môn bà la môn nào đó đi qua mà nói: “Hài nhi này xin đảnh lễ dưới chân thánh
giả.” Nếu đứa trẻ sống được thì hãy chờ mặt trời lặn hãy đem nó về; nếu nó chết
thì hãy quăng bỏ nó.
Cô gái là kẻ có lương tâm, cô ngồi suốt ngày giữa ngã tư
đại lộ. Đầu tiên có vài du sĩ ngoại đạo đi qua, cô gái làm theo mệnh lệnh bà
già. Những du sĩ nói: “Mong cho hài nhi này sống, trường thọ, và ước nguyện của
cha mẹ nó được thành.”
Sau đó vài vị tỷ kheo đi qua, họ cũng chú tụng tương tự
như trên. Cô gái bèn đem đứa bé đến Kỳ Viên tịnh xá. Nàng gặp Đức Phật đang đi
khất thực, và Phật cũng làm như mấy người kia, nhưng nói thêm rằng: “Mong cho
cha mẹ của nó thành tựu những ước nguyện đúng pháp.”
Khi mặt trời lặn, cô gái thấy đứa bé còn sống nên đem về
nhà. Nó được đặt tên là Mahapanthaka (Đại Lộ) vì đã được đưa ra giữa đường cái.
Đại lộ lớn lên thành một học giả tinh thông kinh điển Vệ Đà và dạy cho một trăm
đứa trẻ bà la môn.
Người cha có thêm một đứa con trai khác, ông cũng gọi bà
già và cũng được khuyên như lần trước. Nhưng lần này họ lại giao đứa bé cho một
cô gái làm biếng; cô chỉ bế nó ra đứng tại một đường hẽm. Không có một vị sa
môn bà la môn nào đi qua. Đức Phật biết rằng biết rằng sẽ không bậc thánh nào
sử dụng con đường ấy, nên Ngài đích thân đi đến, vì Ngài vốn luôn luôn đêm ngày
săn sóc cho các hữu tình. Cô gái đảnh lễ, và Ngài nói lời ban phước như lần
trước. Nàng mang hài nhi về nhà khi thấy nó còn sống. Nó được đặt tên là
Chùdapanthaka (Đường Nhỏ). Khi lớn lên nó cố học đạo. Nó tập đọc những tiếng
như siddham, nhưng nó chỉ đọc đường âm sid thì nó quên âm dham, mà khi nó nhớ
âm dham thì nó quên sid. Thầy của Đường Nhỏ bảo người cha rằng: “Tôi còn phải
dạy nhiều trẻ khác. Tôi không thể dạy cho nó.”
Đường nhỏ được gửi đến học tụng kinh Vệ Đà với một người
chuyên về kinh điển ấy. Trước tiên thầy dạy nó hai âm om bhu. Nó đọc được âm om
thì quên âm bhu và ngược lại. Thầy nó phải tuyệt vọng về nó. Ông bảo người cha:
“Thằng Đại Lộ con lớn của ông chỉ cần dạy một chút xíu là biết liền, còn thằng
Đường Nhỏ này thì tôi chịu. Tôi không thể dạy nó; tôi còn nhiều trẻ con phải
dạy.”
Bởi vậy mà cái tên Đường Nhỏ đã hóa thành nghĩa bóng là u
mê đần độn, ngu nhất trong những người ngu, nhỏ nhất trong những cái nhỏ.
Về sau khi cha mẹ chết, Đại Lộ quy y theo Phật và đi tu
thành tỷ kheo, thành một bậc hiền trí, chứng quả A lan hán. Đường Nhỏ tiêu hết
gia tài xong cũng đi theo anh. Đại Lộ quán sát xem em mình có chút duyên gì với
Phật pháp không, và thấy rằng chính mình có thể giúp em khai phát tiềm năng
Phật tính, bởi thế ông cho Đường Nhỏ xuất gia thụ giới làm chú tiểu.
Trong ba tháng kế tiếp. Đường Nhỏ bỏ hết thì giờ chỉ để
học một bài kệ.
Thanh
tịnh thân, khẩu, ý.
Lìa
dục nhiễm thế gian.
Thường
nhớ nghĩ chuyên cần.
Tránh
ác pháp đau khổ.
Bọn giữ bò trong
khu vực nghe lỏm bài kệ ấy cũng đã thuộc lòng, thế mà đường nhỏ không thể nào
thuộc nổi.
Bậc thánh Đại Lộ suy nghĩ: “Làm sao điều phục Đường Nhỏ?
Nên ca tụng nó hay làm nhục?” Ngài thấy rằng nhục mạ Đường Nhỏ là cách điều
phục hiệu nghiệm nhất, bởi thế ngài nhiếc mắng Đường Nhỏ, túm lấy cổ áo của y
mà lôi ra khỏi cổng tinh xá Kỳ Viên.
Đại Lộ nói: “Người là kẻ ngu đần nhất trong những kẻ ngu
đần. Cho ngươi xuất gia làm gì? Đứng đó.”
Đường Nhỏ nghĩ: “Bây giờ mình hết làm tu sĩ rồi, mình
cũng không còn là một người bà la môn nữa rồi.” Và ông khóc lóc thảm thiết.
Động lòng từ mẫn, Đấng Đạo sư chúng ta đi đến bên Đường
Nhỏ và hỏi:
“Này Đường Nhỏ tại sao con khóc?”
“Thầy con đã mắng nhiếc chê bai con đủ điều.”
Đức Phật bảo:
Cái gì
kẻ ngu ca tụng
Thì bị
hiền trí chê bai.
Thà bị
hiền trí chê bai
Hơn
được kẻ ngu khen ngợi.
Này con, thầy con
đã không chịu gian khổ suốt ba a tăng kỳ kiếp để thực hành sáu hạnh ba la mật.
Ông ta không làm ra những bài kệ cho con học, mà chính ta đã làm. Vậy Như Lai
không dạy cho con đọc được hay sao?”
Đường Nhỏ nói: “Thầy ôi, con là kẻ ngu nhất trong đám
ngu, nhỏ nhất trong bọn nhỏ. Làm sao con có thể học đạo được?”
Đức đạo sư trả lời:
Kẻ ngu
biết mình ngu
Đích
thật là hiền trí
Ngu tự
cho mình trí
Mới
thật là chí ngu.
Phật cho Đường Nhỏ
mấy lời này để nó học thuộc: “Từ bỏ bụi dơ, từ bỏ cấu uế.” Nhưng ôi thôi, chừng
ấy cũng quá nhiều đối với Đường Nhỏ. Đức Phật nghĩ, “Ta sẽ thanh lọc nghiệp của
y.” Và Ngài nói: “Này Đường Nhỏ, ngươi có thể chùi giày cho các tỷ kheo không?”
Đường Nhỏ nói: “Ồ thầy, chuyện ấy con làm được.” Đức Phật bảo. “Vậy con hãy
chùi sạch giày dép cho các tỷ kheo. Và này các tỷ kheo, các ông hãy để cho
Đường Nhỏ làm công việc ấy, để y có thể sạch nghiệp chướng. Các ông hãy tụng
những lời ấy để cho y học.”
Khi Đường Nhỏ học xong, Phật bảo ông: “Bây giờ con không
phải chùi giày cho các vị tỷ kheo nữa. Hãy vừa lau quét chùa vừa đọc câu ấy.”
Do thần lực của Phật nữa cái nền bên trái ông vừa lau xong, thì nửa bên phải
lại dơ. Lau nữa bên phải xong thì nữa bên trái lại đầy bụi dơ như cũ. Nhưng
Đường Nhỏ vẫn kiên trì, và trong lúc lau quét, tất cả nghiệp chướng ông được
thanh lọc. Khi ấy ý nghĩ này khởi lên nơi ông: “Bậc đạo sư, ‘hãy từ bỏ bụi dơ,
hãy gột rửa cấu uế’ là ngài muốn nói cấu uế nội tâm hay ở ngoài? Và tâm ông
khởi lên bài kệ sau đây,mà ông chưa từng nghe trước đấy:
Tham
ái là cấu uế, không phải bụi;
Cấu uế
là chỉ cho tham ái, không phải bụi
Bậc
trí tẩy trừ loại cấu uế này,
Thận
trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Sân
hận là cấu uế, không phải bụi,
Cấu uế
là chỉ cho sân, không phải bụi
Bậc
trí tẩy trừ loại cấu uế này.
Thận
trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
Si mê
là cấu uế, không phải bụi…
vân vân. Ông đi sâu
và những bài kệ ấy, và nhờ thiền định ông đạt quả vị A la hán.
Trong kinh, bài kệ ấy như sau, theo những bản nghi thức
chuẩn bị và chỉ giáo truyền khẩu:
“Cấu
uế” không phải là bụi trên đất
Mà đấy
là cấu uế tham ái.
Khi thực hành thì
bài kệ này dễ hiểu hơn, nhưng ta cũng nên trở lui về nguồn gốc của nó.
Khi ấy đức Phật tuyên bố cho chúng tăng biết những đức
hạnh của Đường Nhỏ và bảo: “Này A Nan, hãy nói với Đường Nhỏ đi giáo giới cho
tỷ kheo ni, và đến bảo ni chúng rằng, từ nay Đường Nhỏ sẽ là giáo thọ sư của
họ.”
Đường Nhỏ biết Đức Phật đã công bố những đức hạnh của
mình, nên ông hứa sẽ tuân lệnh đi giáo giới cho tỷ kheo ni.
Các tỷ kheo ni vô cùng kinh ngạc trước tin ấy, họ nói:
“Hãy xem bọn nữ lưu chúng ta bị chọc quê như thế đấy. Ông ta học một bài kệ ba
tháng không thuộc, làm sao lại đi giáo giới cho chúng ta những người tinh thông
ba tạng?”
Sau đó một cô đề nghị: “Chúng ta sẽ làm cái gì để từ nay
về sau khỏi phải chịu những kẻ ngu ngốc như thế.” Mười hai người họp lại làm
một cái tòa giảng thật cao, nhưng không có bực cấp nào để bước lên cả. Những
người khác thì đi vào đại thành Xá Vệ loan báo với dân cư rằng: “Ngày mai có
bậc giáo thọ sư của chúng ta đến viếng thăm. Vị này là một trong những bậc
thánh lớn nhất trong hàng Thanh văn. Chúng ta sẽ nghe Pháp do vị ấy giảng.
Người nào chưa đến vị kiến đạo phải đến nghe, nếu không sẽ trôi lăn lâu dài
trong sinh tử.”
Hàng trăm ngàn người đến nghe giảng. Một số đi để giải
trí, một số khác đi để kiếm công đức. Hôm ấy Đường Nhỏ ra đi khất thực. Sau khi
tất cả đã ăn xong ngồi thiền, ông dẫn những tỷ kheo còn lại trong chùa cùng đến
chỗ an cư mùa mưa của ni chúng, nơi ông phải đến để giáo giới. Khi đến gần pháp
tòa, thấy nó quá cao, ông nghĩ, “Hoặc là họ quá kính trọng ta, hoặc họ muốn thử
ta. “Ông nhập định quán tưởng thì biết là họ muốn thử. Đường Nhỏ duỗi cánh tay
ra như một con voi đưa ra cái vòi để hạ pháp tòa ấy xuống. Một vài người trông
thấy điều này, một số không thấy. Ông ngồi trên tòa rồi lại nhập định. Đường
Nhỏ thăng lên hư không và thi triển bốn thứ thần thông tại mỗi nơi trong bốn
nơi chính đông, tây, nam, bắc. Những thần thông được thâu hồi lại vào người
ông, và bây giờ pháp tòa được nâng đỡ bằng bốn con sư tử.
Ông bắt đầu giảng: “Thưa các chị, tôi mất ba tháng để học
một bài kệ. Bây giờ tôi sẽ giảng ý nghĩa ấy trong bảy ngày bảy đêm liên tiếp.
Đức Thế Tôn đã dạy: “Đừng để
thân, khẩu, ý của ngươi phạm vào lỗi.”Ấy là ngài dạy cho chúng ta từ bỏ
mười tà hạnh. Khi ngài nói “lìa
nhiễm dục thế gian” thì thế
gian ở đây ám chỉ là năm thủ uẩn. “Nhiễm” ám chỉ tham, sân, si làm nhiễm ô năm
uẩn ấy.
Ông chỉ mới dạy ý nghĩa chi tiết của nữa bài kệ, mà đã có
mười hai ngàn người thấy được chân lý. Một số người chứng được bốn quả thánh là
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Có người thành Thanh văn, Độc giác. Cũng
có người vào Đại thừa; mỗi hạng đều mong mỏi đạt đến kết quả giác ngộ thuộc
hạng của mình, như quả A la hán tiểu thừa hay A la hán đại thừa. Hầu hết đều
phát sinh tịnh tín đối với Tam Bảo.
Khi Đường Nhỏ trở về Kỳ Viên, đấng Đạo sư tuyên bố: Trong
số những đệ tử Thanh văn của ta thì Chu lợi bàn đà dà (Đường Nhỏ) là người đệ
nhất về hạnh giáo hóa mọi người.
Đọc kỹ mấy trang sách trên chúng ta thấy được nhiều điều
thậm thâm vi diệu của PHẬT PHÁP. Ở đây chỉ xin nói sơ qua về việc TU HỌC của
hai vị TU HÀNH.
1- Mahapanthaka đọc là Ma-Ha Bàn-đà-da dịch theo âm Hán
Việt là ĐẠI LỘ ( con đường lớn): Là một người có căn trí sáng suốt thông minh
từ nhỏ. Lớn lên là một học giả tinh thông kinh điển Vệ-Đà của đạo Bà-La-Môn.
Khi xuất gia TU HỌC theo Giáo Pháp của ĐỨC PHẬT liền đắc Thánh quả A-La-Hán
danh hiệu Mahapanthaka đọc là Ma-Ha Bàn-đà-da thường gọi là Bàn-đà ( Thông minh
trí tuệ thành tài)
2- Chudapantaka: đọc là Chu Lợi Bàn-đà-da, dịch theo âm
Hán Việt là Tiểu Lộ ( con đường nhỏ ) là một người có bản tính tối tăm chậm lụt
từ nhỏ (bẩm sinh) nhưng trong quá trình TU HỌC dù gặp muôn vàn khó khăn cực khổ
, được bậc Thầy quan tâm dạy bảo cố gắng tới mức tận tâm tận lực THẬT HỌC THẬT
TU QUYẾT TÂM TU HÀNH đã đắc quả vị A-La-Hán trở thành một ĐẠI ĐỆ TỬ của ĐỨC
PHẬT. Là một Thánh Tăng đã từng giáo hóa cho nhiều người TU được Giác Ngộ danh
hiệu là Chu Lợi Bàn-đà-da thường được gọi tắt là Bàn- Đặc (ngu khơ dốt đặc mà
thành tài) cho nên hai câu:
“
Ai chậm tối ngây khờ như BÀN-ĐẶC ,
THẬT QUYẾT TU đạo quả cũng thành công ”!
Để nói về việc; nếu có người nào muốn học bất cứ môn gì,
chớ có sinh tâm tự ti hèn hạ ngán ngại sợ sệt không cố gắng học hành không
quyết tâm rèn luyện để thăng tiến. Nếu người nào đủ căn tính tối tăm đến đâu mà cố gắng tới mức tận tâm
tận lực THẬT HỌC THẬT TU QUYẾT TÂM THỰC HÀNH và RÈN LUYỆN thì bất cứ việc gì
cũng thành công rực rỡ. Câu châm ngôn “ Muốn là được” nghĩa là như vậy.
(138) Khổ thơ:
“
Trong vũ trụ ngàn vạn điều linh diệu
Còn muôn phần cần yếu phải nghiên tầm...
Tự bưng bít chẳng biết mình kém thiếu
Vừa Mở Miệng liền kết luận “ Duy Tâm”! ”
Đoạn thơ này lấy ý trong bài kệ của ĐỨC PHẬT dạy trong :
“ ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH ”
“ Nhược nhãn dục liễu tri
Tam thế nhất thiết PHẬT
Ưng quán pháp giới tính
Nhất thiết duy tâm tạo ”.
“ Duy Tâm ” nghĩa là tất cả mọi việc đều phát khởi từ nơi
tâm nghiệp lực của chúng sinh mà chiêu cảm ra. Tất cả những điều như tốt-xấu
như: Bệnh dịch, lụt bão, hạn hán, sâu, rầy, chuột bọ, thú rừng, mưa nắng thất
thường, động đất, tinh tú đổi dời cac kiếp nạn... cho đến về chiến tranh tàn
khốc liên miên.v.v.. đều do ác tâm của chúng sinh gây tạo nên những cộng nghiệp
đó chúng ta hãy nghe ĐỨC PHẬT giảng rõ về ý nghĩa của điều “Nhất thiết duy tâm
tạo ” trong “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN”
4- “ Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có
một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một
phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm
này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh
này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao? Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm
mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc
dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao
vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công
do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra
địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật,
tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên
cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm
mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành,
hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
Phật nói: Người này không bao lâu sẽ
được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ
được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có người người rõ được tâm,
thấy được tánh, y theo Phật dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công
đức tụng ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp.
Tại sao? Hết thảy các Đức Phật và các
pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư Phật đều tự nơi tâm mình phát sinh
ra, vô cùng vô tận, không hư không lộn, nên gọi là ngộ Phật tâm. Cho nên Phật
cùng chúng sanh tâm tánh như nhau, tại người tu và không tu, tin cùng chẳng
tin, nên có người làm Phật có người làm chúng sanh.”
(159) Hai câu:
“
La Sát suy bụng ta ra kẻ khác
Tưởng rằng ai cũng Quỉ Quyệt như mình?! ”
Trong “ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN” Đức PHẬT dạy
: “ Tâm làm ra Thiên đường, tâm làm ra địa ngục, tâm làm ra PHẬT, tâm làm ra
chúng sinh. Nếu Tâm chính thì thành PHẬT, tâm tà thì thành Ma. Tâm từ là người
của trời, tâm ác là người của La Sát ...” muốn biết rõ tâm địa , cách hành xử
và lối sống của loài ác Quỷ La-Sát tại xứ sở của chúng như thế nào chúng ta
nghe ĐỨC PHẬT dạy trong “ KINH ĐẠI-THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG” QUYỂN BA BỘ MẬT TÔNG.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng
Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Những việc xưa kia của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát, con đã nghe Phật nói. Vậy Bồ Tát đó có những Tam ma địa gì? Kính mong đức
Thế Tôn vì con tuyên nói.
Phật dạy: Này thiện nam
tử! Những môn Tam ma địa ấy là: Hữu tướng tam ma địa, Vô tướng tam ma địa, Kim
Cang sanh tam ma địa, Nhật quang minh tam ma địa, Quảng bát tam ma địa, Trang
nghiêm tam ma địa, Tinh kỳ tam ma địa, Tát trang nghiêm tam ma địa, Trang
nghiêm vương tam ma địa, Chiếu thập phương tam ma địa, Diệu nhãn tam ma địa,
Trì pháp tam ma địa, Diệu tối thắng tam ma địa, Thí ái tam ma địa, Kim Cang
phiên tam ma địa, Quán sát nhứt thiết thế giới tam ma địa, Lạc thiện thệ tam ma
địa, Thần thông nghiệp tam ma địa, Phật đảnh luân tam ma địa, Diệu nhãn nguyệt
tam ma địa, Liễu đa quyến thuộc tam ma địa, Thiên nhãn tam ma địa, Minh chiếu
kiếp tam ma địa, Biến hiện kiến tam ma địa, Liên hoa thượng tam ma địa, Thượng
vương tam ma địa, Thanh tịnh a tỳ tam ma địa, Tín tướng tam ma địa, Thiên luân
tam ma địa, Sái cam lồ tam ma địa, Luân quang minh tam ma địa, Hải thâm tam ma
địa, Ða cung tam ma địa, Ca lăng tần già thinh tam ma địa, Thanh liên hoa hương
tam ma địa, Vận tải tam ma địa, Kim Cang khải tam ma địa, Trừ phiền não tam ma
địa, Sư tử bộ tam ma địa, Vô thượng tam ma địa, Hàng phục tam ma địa, Diệu
nguyệt tam ma địa, Quang diệu tam ma địa, Bách quang minh tam ma địa, Quang xí
thạnh tam ma địa, Quang minh nghiệp tam ma địa, Diệu tướng tam ma địa, Khuyến a
tô tam ma địa, Cung điện tam ma địa, Hiện viên tịch tam ma địa, Ðại đăng minh
tam ma địa, Ðăng minh vương tam ma địa, Cứu luân hồi tam ma địa, Văn tự dụng
tam ma địa, Thiên hiện tiền tam ma địa, Tương ưng nghiệp tam ma địa, Kiến chơn
như tam ma địa, Ðiển quang tam ma địa, Long nghiêm tam ma địa, Sư tử tần thân
tam ma địa, Ta để diện tam ma địa, Vãng phục tam ma địa, Giác ngộ biến tam ma
địa, Niệm căn tăng trưởng tam ma địa, Vô tướng giải thoát tam ma địa, Tối thắng
tam ma địa, Khai đạo tam ma địa.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát chẳng những chỉ có tam ma địa ấy (tam muội, chánh định) mà còn ở
mỗi một lỗ chân lông đầy đủ trăm ngàn vạn tam ma địa. Thiện nam tử! Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát còn ở địa vị Bồ Tát mà công đức như thế, cho đến chư Phật Như
Lai phải khen ngợi tán thán công đức chưa từng có vậy.
Thiện nam tử! Khi xưa tôi
(Phật) còn làm Bồ Tát, cùng với năm trăm người lái buôn, muốn vào nước Sư tử,
đem theo các xe cộ, lạc đà, trâu …để tìm kiếm của báu. Tôi dẫn đầu đi đến nước
đó, phải đi qua các làng xóm tụ lạc, các thành ấp, khi đến bờ biển, tôi cùng
các lái buôn đều lên một chiếc thuyền lớn để đi, lúc bấy giờ đã vào thuyền. Tôi
hỏi chủ thuyền: Ông xem chiều gió kia thổi từ đâu đến, thổi đến nước nào? Hay
là đến bảo châu, hay nước Xà Bà, nước La Sát ư? Chủ thuyền ấy xem chiều giới rồi nói
thế này: Gió này nên hướng về nước Sư tử mà đi. Thuyền trương buồm nương gió
đến nước Sư tử, ở trong nước đó có 500 nữ La sát. Bỗng nhiên biến gió thổi
mạnh, biển nổi sóng cuồn cuộn thuyền bị đập vỡ.
Khi ấy các người lái buôn
hụp lặn trong nước, thân kia trôi giạt vào bờ và lên được trên bờ. Năm trăm nữ
La sát ấy thấy các người lái buôn, ai nấy đều lòng rung động, kêu réo hét lên
những tiếng dữ tợn rồi hiện thành những cô gái trẻ đẹp, đến chỗ lái buôn. Họ
đem y phục cho các lái buôn, được mặc đồ rồi, tự mình vắt những đồ ướt khiến
phơi mau khô. Rời khỏi bờ biển, chúng tôi đến dưới cây Chiêm Ba Ca để nghỉ
ngơi. Nghỉ xong cùng nhau nói rằng: Chúng ta nay đây biết làm thế nào? Sanh
nhai nghề gì? Chẳng còn phương kế tính liệu làm sao? Nói rồi lặng thinh.
Bấy giờ bọn nữ La sát đến
trước những lái buôn nói như thế này: Tôi không có chồng, nên làm chồng mà ở với
tôi. Ở đây tôi có đồ ăn, thức uống, y phục, kho tàng, vườn cây, ao tắm. Bấy giờ
các nữ La sát, mỗi người đem một người lái buôn về chỗ mình ở. Ở đó trong hàng
nữ La sát có một người làm đại chủ tể tên là Ra để Ca lãm. Nữ la sát ấy đem tôi
về ở nhà nó. La sát lấy các món ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi thật đầy
đủ. Tôi được sống sung sướng không khác gì ở nhân gian. Ăn ngủ ở đó trải qua
thời gian hai ba cho đến bảy tuần lễ. Thoạt nhiên tôi thấy Ra để Ca lãm vui
cười mừng rỡ.
Bấy giờ lòng tôi sanh nghi
lấy làm lạ là chưa bao giờ thấy
nữ La sát ấy cười lên như thế. Tôi liền hỏi: Cô nay cớ chi mà vui cười như vậy.
Nữ La sát nói: Nước Sư Tử này là chỗ nữ La sát ở, tôi sợ tổn hại tánh mạng ông.
Tôi lại hỏi: Làm sao mà cô biết? Nữ La sát nói: Chớ qua đường hướng nam mà đi.
Vì sao vậy? Vì ở đó có thành sắt trên dưới bao quanh không có cửa ngõ, trong đó
vô số người lái buôn phần nhiều đã bị ăn thịt chỉ còn xương trắng, nay trong đó
có kẻ còn người mất, không tin lòng nhau, thì ông hãy theo đường này đến đó, tự
nhiên sẽ tin tôi. Khi ấy tôi chờ đến nửa đêm thì La sát ngủ mê, tôi là Bồ Tát
cầm nguyệt quang kiếm soi đờng qua phía nam, đi chung quanh thành sắt mà xem,
thấy không có cửa lớn, không có cửa nhỏ, bên thành sắt có một cây Chiêm Ba Ca.
Liền leo lên cây, tôi lớn tiếng kêu hỏi thì các người lái buôn trong thành bảo
tôi rằng: Hiền đại Thương Chủ! Hãy trở lại đi, biết không? Chúng tôi bị bọn nữ
La sát đem nhốt trong thành sắt này, cứ mỗi ngày ăn thịt trăm người.”
Khi nghe các bạn nói những
việc đã xảy ra, tôi liền trụt xuống cây Chiêm Ba La, lui y đường cũ phía nam mà
cấp tốc trở về chỗ nữ La sát. Lúc ấy La sát bảo tôi rằng: Hiền đại thương chủ!
Thành sắt đã nói, trở về thấy chăng? Ông nên nói thật. Tôi nói: Ðã thấy. Tôi
hỏi: Làm cách nào cho tôi được ra khỏi nơi này? La sát bảo với tôi rằng: Nay có
một cách hay có thể khiến ông yên ổn, ra khỏi nước Sư tử này mà trở về Nam
Thiệm Bộ châu. Tôi thấy nói lời phải ấy tôi lại hỏi tiếp cô ta chỉ cho tôi
đường nào ra khỏi nước này. Khi ấy Ra để Ca lãm bảo với tôi rằng: Có Thánh Mã
Vương hay cứu độ tất cả hữu tình. Tôi liền tìm qua chỗ Thánh Mã Vương, Ngài
đang lăn mình nơi đất cát vàng, ăn bạch dược thảo, ăn rồi rung mình đứng dậy
lông thân quất ngược, làm như thế rồi mà nói lên rằng: Người nào muốn qua bờ
bên kia. Ba lần kêu hỏi: Nếu người nào muốn đi hãy tự nói lên.
Tôi thưa với Thánh Mã
Vương rằng: Tôi nay muốn qua bên kia, nói xong tôi vội trở về nhà nữ La sát để
cùng ngủ nghỉ. La sát ngủ dậy lòng sanh hối hận những việc đã qua mà hỏi tôi
rằng: Thương chủ! Thân ông thế nào? Có lạnh lắm chăng? Hỏi vậy tôi biết ý La
sát không muốn cho tôi đi. Tôi liền lấy cớ bảo cô ta rằng: Tôi mới vừa ra ngoài
thành, đại tiểu tiện mà trở vào cho nên bị lạnh. La sát bảo tôi nên đi ngủ sớm.
Ðến mặt trời mọc tôi mới dậy. Tôi kêu các bạn lái buôn cùng đi rằng: Nay nên ra
khỏi thành này mà du ngoạn. Khi ấy các bạn lái buôn tôi đều ra khỏi thành, đến
ở một chỗ mà nghỉ, rồi cùng nhau bàn luận: Nay trong chúng ta vợ người nào thật
thương chồng? Thấy những gì và làm những việc gì?
Lúc ấy trong chúng tôi có
người nói rằng: Họ lấy những đồ ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi.
Người khác lại bảo: Họ lấy
các thứ y phục đẹp đẽ cho tôi, hoặc nói lấy mão trời, vòng ngọc, đeo tai, y
phục cho tôi.
Hoặc: Tôi đã không được
vừa lòng.
Kẻ nữa
lại bảo: Họ lấy các món long xạ hương, chiên đàn hương cho tôi. Khi các bạn lái
buôn tôi nói xong, tôi bảo: Các bạn khó
giải thoát. Bởi vì sao? Vì thương yêu nữ La sát vậy. Những người lái buôn nghe
lòng nghĩ lo sợ mà hỏi rằng: Ðại thương chủ! Thật như vậy ư?
Tôi mới
bảo rằng: Ðây là nước Sư Tử, chỗ nữ La sát ở chứ chẳng phải người vậy. Ðây thật
là lời nữ La sát nói với tôi: Chỉ có Phật Pháp Tăng mới biết rõ đây là nữ La
sát. Bấy giờ các lái buôn nghe rồi tôi liền bảo họ rằng: Nước Sư Tử này có
Thánh Mã vương hay cứu tất cả hữu tình. Ngài lăn mình nơi đất cát vàng, ăn đại
bạch dược thảo, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược mà ba lần kêu
hỏi lên rằng: Ai muốn qua bờ bên kia? Tôi thưa Ngài Mã Vương rằng: Tôi nay muốn
qua bờ bên kia. Bấy giờ các lái buôn lại nói với tôi rằng: Ngày nào đi? Tôi bảo
các người ấy sau ba ngày quyết định sẽ đi. Các người hãy nên sắm đủ lương thực.
Nói xong sau đó tôi và các bạn lái buôn cùng trở vào thành. Ai nấy đều trở về
nhà nữ La sát. La sát thấy tôi về đến niềm nở thăm hỏi: Ông có mệt nhọc chăng?
Tôi hỏi cô La sát: Tôi chưa từng thấy ý người vui vẻ, vườn cây ao tắm là có
thật ư? Lúc ấy La sát bảo
với tôi rằng: Ðại thương chủ! Nước Sư tử này có các thứ hợp ý vừa lòng: Vườn
cây, ao tắm. Tôi bảo cô ta rằng: Hãy sắm đủ lương thực cho tôi, tôi muốn sau ba
ngày đi dạo xem vườn cây, ao tắm, xem những danh hoa đẹp đẽ kia, tôi sẽ hái các
thứ hoa ấy mà đem về nhà. Cô La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương chủ! Tôi sẽ
sắm đủ lương thực. Lúc ấy sợ cô La sát biết phương kế chắc sẽ giết tôi, tôi
nghĩ như vậy mà làm thinh. Cô La sát lấy đồ ăn thức uống rất ngon cho tôi ăn,
ăn rồi tôi than thở. Cô La sát hỏi: Ðại thương chủ! Cớ chi mà than thở vậy? Tôi
bảo cô rằng: Tôi vốn là người Nam Thiệm Bộ châu, nghĩ nhớ đất cũ. Cô La sát bảo
tôi rằng: Ðại thương chủ! Chớ nhớ xứ cũ làm gì. Nước Sư Tử này có các thứ ăn
uống, y phục, kho tàng các điều hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm, thọ hưởng các
thứ khoái lạc. Cớ vì sao lại nhớ Nam Thiệm Bộ châu kia? Tôi bấy giờ làm thinh
mà yên ở đó. Qua ngày ấy rồi, đến ngày thứ hai, cô La sát sắm đủ các thứ lương
thực đồ ăn uống cho tôi. Các thương nhơn khác cũng đều sắm đủ lương thực. Qua
ngày thứ ba khi mặt trời vừa mới hừng mọc, tôi đem tất cả những người lái buôn
đều ra khỏi thành. Ra khỏi thành chúng tôi cùng bàn: Chúng ta nay nên đi mau,
không nên ngó lại nước Sư tử này. Nói xong tôi cùng chúng bạn tức thời vội vã
qua đến chỗ Thánh Mã vương, đến nơi thấy Thánh Mã vương đang lăn mình ăn cỏ, ăn
rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược. Khi ấy nước Sư tử đất đều chấn
động, Mã vương ba lần nói rằng: Nay người nào muốn qua bờ bên kia? Các bạn lái
buôn đồng nói lên rằng: Chúng tôi nay đều muốn qua bờ bên đó. Lúc ấy Thánh Mã
vương vươn mình mạnh mẽ nói lời vội thúc rằng: Các người nên đi trước, chớ ngó
lại nước Sư tử! Thánh Mã vương nói như vậy rồi, bấy giờ tôi thừa cỡi Mã vương
đi trước, năm trăm lái buôn đều lên ngựa theo sau.
Khi ấy
trong nước Sư tử các nữ La sát thoạt nghe tin các lái buôn đi, miệng nói lên
những lời thống khổ, liền cấp tốc đuổi theo, theo sau kêu gào, khóc thương than
thở! Các bạn lái buôn tôi nghe tiếng động lòng, quay đầu ngó lại, trong chốc
lát đều rơi xuống nước. Các nữ La sát với thân kia lên thảy đều ăn thịt. Khi ấy
chỉ còn một mình tôi về được Nam Thiệm Bộ Châu, Thánh Mã vương đưa tôi đến tận
bờ biển. Ðến bờ, tôi bước xuống nhiễu quanh Thánh Mã vương ba vòng, rồi tìm
đường mà về chỗ cũ. Ðã về đến nhà, cha mẹ thấy tôi ôm chân tôi mừng rỡ, thương
khóc nước mắt tuôn trào. Cha mẹ trước kia vì thương nhớ tôi khóc than, nên đôi
mắt phải mù lòa, nay tôi về lại sáng tỏ như xưa. Cha mẹ cùng tôi ở chung một
chỗ. Tôi bèn thuật lại đầy đủ những việc đã trải qua cùng bao gian khổ. Cha mẹ
nghe rồi bảo với tôi rằng: con ngày nay được toàn tánh mạng yên ổn mà về, ta
hết sức sung sướng không còn lo buồn nữa, ta không mong con phải cho ta nhiều
của báu, nay chính ta tự biết tuổi già sức yếu cần con gần gũi sớm chiều một
bên, ta sẽ chết, con hãy làm chủ mà tống tang ta. Khi xưa che mẹ đã nói lên
những lời ngọt lành như thế mà an ủi tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi khi ấy làm thân
thương chủ đã chịu những việc khổ sở nguy nan như vậy!
Bấy giờ,
Ðức Phật dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Thánh Mã vương ấy tức Quán Tự Tại đại Bồ
Tát, trong cơn nguy hiểm, lo sợ ấy đã cứu giúp tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi nay
không thể nói hết số lượng công đức của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Tôi chỉ vì
ông mà lược nói về Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát , trong lỗ chân lông nơi thân
của Ngài đã có công đức. Trừ Cái Chướng! Thân Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có lỗ
lông vàng kim sắc, trong đó có vô lượng trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn
Ðạt Phạ. Những Ngạn Ðạt Phạ ấy không còn chịu khổ luân hồi mà hưởng thọ sự tối
thắng khoái lạc, thọ dụng các vật ở cõi trời không cùng tận, không có ác tâm,
không lòng ganh ghét, không tham sân si, thường tu hành Bát Chánh Ðạo, thường
thọ pháp lạc.
La Sát là
những hạng người nào? Xứ sở của La Sát ở đâu ?
Đọc phần
văn kinh trên chúng ta thấy được ở nơi nào cũng có nhiều kẻ tham ác quỉ quyệt
những loại đó có phải là La Sát không ? Những hạng người chỉ luôn luôn
mong muốn thu lại lợi lạc cho mình đã không từ bất cứ một mưu ma quỷ kế nào để
bắt kẻ khác phải làm lợi ích thỏa mãn dục vọng của mình ?...
Trái ngược
với loài La-Sát ác độc đó có những BẬC THIỆN NHÂN luôn luôn hòa nhập lăn lộn,
tắm mình trong biển khổ sinh tử luân hồi mà không hề ngán ngại thoái lui thường
hằng tỉnh giác, dùng mọi phương tiện cứu độ cho người được thoát khổ an vui…
Như HIỀN ĐẠI THƯƠNG
CHỦ là một tiền nhân của ĐỨC PHẬT THÍCH CA, như THÁNH MÃ VƯƠNG là một hóa thân
của QUÁ KHỨ CHÍNH PHÁP MINH NHƯ LAI, hiện tại là QUÁN TỰ TẠI ĐẠI BỒ TÁT QUÁN
THẾ ÂM…và các hàng đệ tử thân tín của NGÀI !...
(150) Hai câu
thơ :
« Người thiện đức khác
hẳn phường tham ác,
Quí đẹp thay THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM
LINH ! »
Chúng ta hãy nghe
ĐẠI SƯ PABÔNGKA RINPOCHE là Thầy Giáo-Thọ của ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ở TÂY TẠNG
(ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA hiên nay toàn thế giới
đều suy tôn Ngài là ĐỨC PHẬT SỐNG chính là hóa thân đời thứ 14 của ĐỨC
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT tại Tây Tạng ) giảng ngày thứ 8 của sách « Giải
Thoát Trong Lòng Tay » để thấy rõ
sự cần thiết phải tìm và nương tựa vào một BẬC THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH như thế
nào ?
“ Nương tựa vào bậc thầy không mà thôi chưa
đủ, bạn phải nương một bậc thầy có thể giảng dạy con đường toàn diện. Một người
chỉ có vài đức tính - như có lòng tốt, chẳng hạn - đôi khi lại không có khả
năng giảng dạy con đường toàn diện. Dù người đệ tử có thể có tín tâm, trí tuệ
và kiên trì, nhưng nếu bậc thầy không làm chủ hoàn toàn kinh điển và mật điển,
thì những môn đệ sẽ đành trọn đời để tu chỉ một vài pháp như quy y, vài pháp
quán chư thiên, thiền định về khí lực và huyệt đạo, vân vân. Sự tái sinh may
mắn của người môn đệ như vậy không trở thành có ý nghĩacho lắm. Bởi thế bạn
phải nương tựa một bậc hướng đạo tâm linh có khả năng toàn diện.
Có nhiều khả năng khác nhau: truyền giới Biệt Giải Thoát,
giới mật tông và Bồ đề tâm giới v.v.. Đây tôi sẽ nói đến những khả năng của một
bậc thầy có thể giảng dạy Lam-rim toàn diện. Bạn phải tra tầm xem một vị thầy
có đủ những khả năng như vậy hay không, trước khi tìm đến nương tựa. Không
những bạn cần xem xét khả năng bậc thầy nào bạn muốn nương, mà bất cứ người nào
muốn hướng dẫn người khác về Luật tạng, Kinh tạng hay Mật tạng, đều phải tự xét
mình có đủ khả năng trong lĩnh vực ấy hay không. Nếu chưa đủ khả năng, thì phải
làm sao cho đủ khả năng cái đã. Không phải chỉ cần có đủ bộ sậu đồ lề của mật
tông như bình cam lồ cho thọ mạng hoặc dụng cụ làm lễ tắm chư thiên (xem Ngày
Thứ Năm), hay thuộc lòng những nghi thức ấy mà đã là đủ tư cách để làm thầy.
Có những loạt điều kiện khác nhau: một loạt điều kiện để làm
tu viện trưởng và thầy truyền giới có thể dạy giới luật; một loạt để làm thầy
về pháp Đại thừa nói chung, một loạt để làm thầy về các mật điển. Tôi sẽ mô tả
những tư cách của bậc thầy thuộc pháp Đại thừa nói chung. Quyển Trang Nghiêm Kinh của đức Di Lặc nói:
Hãy
nương một bậc thầy
Đã
được điều phục, rất an, rất tịnh,
Người
có nhiều đức tính hơn mình,
Kiên
trì, một kho tàng kinh điển,
Thực
chứng chân như
Có tài
biện thuyết, có từ bi,
Đã từ
bỏ sự thất vọng.
(Về
cung cách của đệ tử).
Như vậy có mười đức tất cả: dòng tâm thức của bậc thầy
phải được điều phục nhờ giới. Tâm tán loạn của bậc thầy phải được rất an nhờ
định chỉ nhất tâm. Sự chấp thủ bản ngã nơi bậc thầy phải rất tịnh nhờ trí tuệ.
Khi một cây hương trầm được đặt giữa những que cũi khác, thì cũi cũng thơm lây,
cũng thế bạn sẽ có những đức tính và khuyết điểm của vị thầy. Bởi thế thầy phải
có nhiều đức tính hơn bạn. Thực chứng chân như là như vầy. Thầy đã khám phá tri
kiến nhờ trí tuệ do học hỏi (văn tuệ). Kiến là tri kiến theo bộ phái Pràsangka.
Đây là tăng thượng tuệ; tôi không nói đến trí tuệ có được khi ngài ta khám phá
ra tri kiến theo bộ phía Svàtantrika (Kinh Lượng bộ) và dưới đó (xem Ngày Thứ
Hai Mươi Hai, trang…) Phần còn lại đã dễ hiểu.
Những bậc thầy cần có đủ những đức nói trên, và chắc chắn
có ít nhất năm điều này: một dòng tâm thức đã điều phục nhờ một trong ba môn
học tăng thượng là giới,v.v…, từ và bi, và thực chứng chân như, Geshe Potowa
nói:
“Mọi người trong gia đình thầy Yerpa tôi tin rằng thầy
chưa từng học nhiều, lại không kiên nhẫn khi bị trái ý, cho nên chẳng được cái
gì. Nhưng Yerpa có năm đức tính này và bất cứ ai gặp thầy cũng được lợi lạc.”
(173) Khổ thơ:
“ Vui biết mấy TRỤ TRÌ LƯU
LINH TỰ!
Từ TÂY-NINH, BÌNH ĐỊNH… tới
SÔNG HỒNG,
Tận tâm cứu kẻ “ nhất sinh thập
tử ”
Ai thương người hơn HÀNH GIẢ
MẬT TÔNG ”
Xin tạm lược
giải nghĩa của thành ngữ: “TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ ”
1- Hiểu với
nghĩa thông thường “ trụ ” là “ trụ - xứ ” “ khu vực” “ vùng ”…như nghe người
ta thường nói “ trụ xứ Đại ninh, Lâm Đồng ”, ta hiểu là khu Đại Ninh thuộc tỉnh
Lâm Đồng hoặc “ ở vùng Đại Ninh, tỉnh Lâm Đồng ”.v.v
2- “ TRÌ ” là “
nắm giữ ” “ cầm giữ ” “ gin giữ ”
Các vị TU HÀNH XUẤT GIA ở trong chùa
đông người phải cử ra các chức như: Viện - Chủ, Trụ - trì, Trị - sự, Tri –
Khách, Tri – chúng, Tri – khố, Tri – trù, v.v..
Chức TRỤ TRÌ để chỉ người được TĂNG
chúng trong chùa tín nhiệm đề cử lên cao nhất để chỉ đạo tất cả mọi việc trong
chùa, điều hành các vị Trị - sự, Tri – Khách, Tri – chúng v.v..
Những Chùa có ít người chỉ có một
người thì gọi là “ trụ trì ” là để chỉ cho người ở trông coi ngôi chùa đó, phải
làm tất cả mọi công việc tạp nhạp từ cúng lễ, bái sám, cầu an, cầu siêu, sớ
sách.v.v..theo sự yêu cầu của người ở xứ sở đó:
“ Ai bảo “TRỤ TRÌ dâu trăm
họ” ?
Làm mướn không công… mãi long đong!
”
Nhiều nơi có
thùng “ Phước-Sương ” hay thùng “ TAM BẢO Phước- Điền ” đựng tiền của đàn na
tín thí cúng vào để xây cất tu tạo hoặc sửa chữa chùa v.v..vị TRỤ TRÌ không
được sử dụng chìa khóa thùng “ TAM BẢO Phước- Điền ” do những người của địa
phương đó giữ để thu cất tiền. Vị TRỤ TRÌ thấy cần xây cất hoặc tu sửa gì ở
chùa đều phải hỏi ý kiến của những người này, họ có đồng ý mới được làm, họ
không cho thì cũng phải chịu, làm gì không vừa ý họ liền bị họ chê bai. Có phải
làm dâu trăm họ không? Có điều không làm hài lòng họ, thì bị họ kêu đòi tới la
rầy phiền trách.
“TRỤ TRÌ lao nhọc hơn “ đầy
tớ ”
Kẻ khiến người sai… lúc quan đòi
”
Khi có việc cần
đi đâu không thể bỏ đi được:
“ Mang tiếng TRỤ TRÌ thành
buộc cột,
Chẳng muốn đèo bong phải đa
mang!
Không xiềng không trại mà giam
nhốt?
Trọng trách đeo mang hóa buộc
rang! ”
Như một “tên tù
khổ sai chung than” tại nơi đó:
“ Trách nhiệm nặng nề thành
trói buộc
Chùa hóa “trại giam”
“nhốt” TRỤ TRÌ! ”
Có nơi vị TRỤ
TRÌ “ không khéo chiều khách” còn bị người ta giận hờn chửi bới thù oán đánh
mắng đuổi đi với hai bàn tay trắng ( có bạc bẽo không ? ) chẳng phải là:
“ Làm mướn không công… mãi long
đong! ”
Mang
tiếng làm TRỤ TRÌ chùa theo tính cách trên thật không được thanh thoát an lạc
một chút nào!...
Hai chữ “ TRỤ TRÌ ” đã được ĐỨC PHẬT
giảng dạy rõ trong KINH, ở đây xin tạm lược giải như vầy: TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA,
TRÌ NHƯ
–LAI MẠNG
Lược giải nghĩa:
“ TRỤ ” Là ở trong ngôi nhà chính pháp
của ĐỨC PHẬT xây bằng GIỚI-ĐỊNH-TUỆ. Gồm TAM TẠNG: KINH-LUẬT-LUẬN.
“ TRÌ ” là nắm giữ hoằng truyền làm
cho mạng mạch của PHẬT PHÁP mãi mãi HƯNG THỊNH.
Lĩnh hội được ý chỉ lời ĐỨC PHẬT dạy
như vậy cho nên trong bài “ Bóng Nhạn Lưng trời ” HÀNH-GIẢ đã viết:
“Trụ trì : lãnh thọ, truyền Tam-Tạng,
Đời đời
ân « TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA »
Kiếp kiếp nguyện «
TRÌ NHƯ LAI MẠNG »,
Con hiếu trung
kiên của Phật – Đà!”
3- “LƯU LINH TỰ”
- Từ “Lưu linh tự ” để chỉ người đi nhiều nơi, ở nhiều
xứ, tượng tự như từ “ giang hồ ”
“ Quần toạc ống khâu đường kim vạn dặm,
Áo bục vai tôi vá mụn “ giang hồ ”...
( Trích trong bài “ Tâm sự một chặng đường” – 1972
Bắc-Sơn-Đình)
Ca dao Việt Nam cũng nói:
“ Đành
rằng máu chảy về tim
Đố ai ngăn được cánh chim giang hồ…”
ĐỨC PHẬT đã dạy bài kệ về hạnh DU TĂNG KHẤT SĨ:
“
Nhất bát thiên gia phạm
Cô thân vạn lý du
Dục cùng sinh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu ”
ĐỨC PHẬT lại dạy các đệ tử xuất gia:
“ Nhật trung nhất thực
Thọ hạ nhất túc”
Nghĩa là:
“ Giữa ngày ăn một bữa
Dưới gốc cây ngủ một đêm”
“ Tự nghĩa là
chùa ” như nói “ Ấn Quang Tự ” ta hiểu
là “ chùa Ấn Quang ” hay nói “ Thiếu Lâm Tự ” là “ chùa Thiếu Lâm
”
ĐỨC PHẬT dạy các
đệ tử hạnh xuất gia ở chùa là ở “ CỬA KHÔNG ” ( không vướng mắc vào tài sắc
danh lợi ) vậy mà có nhiều người “ Xuất ” cái “ Tiểu Gia” có cha mẹ, vợ, chồng,
con cháu…lại “ Nhập ” cái “ Đại gia” chất chứa đầy trần gian phiền não. Ngôi
chùa đó có khác chi một quầy hàng “ Bách hóa tổng hợp”. Nếu không nói gồm đủ các món ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực,
thùy; thì cũng không mấy khi thiếu vắng các món Tài, danh, lợi…Họ lại nuôi lợn,
gà.v.v.. để ăn thịt và bán kiếm lời. Họ lại để mọi người mang hành, tỏi, rượi
thịt vào cúng lễ và ăn uống trong chùa để “ cầu tài lộc”, như vậy không phải
một dịch vụ đó sao?
Chùa còn gọi là
“ngôi TAM BẢO” (ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo)
Sao lại có thêm “điện thờ Mẫu” (
đền và điện thờ thánh, đình và miếu thờ thần ) để lên đồng bong “ hầu ” Thánh!
Vậy
ở chùa nào có “Điện thờ Mẫu ” phải gọi là “ngôi Tứ Bảo”(?) và vị sư ở đó vừa là
thành phần nhỏ trong ngôi “ Tăng Bảo ” là là “ Thành phần quan trọng ” trong “
ngôi đồng bóng bảo” buôn thần bán thánh nữa?!...
Ngôi
chùa nào như vậy có khác chi một cửa hàng TRỤ TRÌ ở nơi đó có khác chi người
“cửa hàng trưởng” của một “công ty thương mại” ?
“
Mượn tiếng GIÀ-LAM làm “dịch vụ”
Bán lợi buôn danh tội lu bù! ”
Mang tiếng là người TU HÀNH làm TRỤ
TRÌ ở chùa theo kiểu “cửa hàng
trưởng” của một “ Bách hóa tổng hợp” hay làm “ giám đốc ” một “Dịch vụ ” như
vậy thì sướng hay khổ? Sang hay hèn?
Vinh hay nhục? AN LẠC GIẢI THOÁT hay trầm luân đọa lạc?...có đáng thương không
?! Tội nghiệp không?!...
Ở đây
HÀNH-GIẢ chỉ ứng thích kham nhận làm TRỤ TRÌ với nghĩa:
“TRỤ
TRÌ lĩnh thọ truyền TAM TẠNG,
Đời đời ân TRỤ PHÁP VƯƠNG GIA
Kiếp kiếp nguyện TRÌ NHƯ LAI MẠNG
Đệ tử trung kiên của PHẬT ĐÀ!”
… HÀNH-GIẢ mỗi khi có việc từ trong Nam ra hay từ cao
nguyên về hoặc từ miền Bắc vào thường tới vấn an sức khỏe và cúng các thứ thuốc
như: thuốc chữa bệnh đau dạ dày ( bao tử), thuốc bổ tổng hợp, thuốc bổ thần
kinh, và chữa mất ngủ kinh niên, thuốc phong thấp ( chữa các chứng tê, bại,
xụi, đau nhức mỏi).v.v.. Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn nguyên trước ngày giải
phóng Miền Nam phụ trách Phật-Giáo các tỉnh Tây Nguyên: GIA LAI, PLÂY-KU,
KON-TUM, ĐẮC-LẮC hiện nay là TRỤ TRÌ chùa Thiên Đức xã Nhân An, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định. Mỗi khi thấy HÀNH GIẢ tới cúng thuốc thường tán than: “ Thời
nay muốn TU Hạnh “ ưng vô sở trụ ” “ thiểu dục” “ Hỷ túc ” “ Thượng cúng dường
TAM BẢO, Hạ bố thí chúng sinh ” như Thượng Tọa không phải là dễ…với tâm TỪ BI
cứu khổ ban vui cho chúng sinh , Thượng Tọa đã dung công hạnh Dược Sư dung
Y-PHƯƠNG-MINH kết hợp với PHẬT PHÁP, đặc biệt là các pháp của MẬT TÔNG cứu độ
chúng sinh nhiều nơi cả ba miền TRUNG-NAM-BẮC … giờ đây Thượng Tọa lại nguyện
cứu độ người mien cao nguyên biên địa nghèo
khổ xa Thầy thiếu thuốc…Mặc dù trời mưa bão lụt gian nan cực khổ mà
không hề ngán ngại. Tôi thật hoan hỷ tán than và sẵn sang ủng hộ những PHẬT SỰ
PHÁP-SỰ “ cứu khổ chúng sinh là cúng dường chư PHẬT ” mà Thượng Tọa đã thực
hành không mỏi mệt nhiều năm qua…
- Nam
mô A-DI-ĐÀ-PHẬT! Hòa Thượng đã chứng minh và chú nguyện cho con như vậy con rất
hoan hỷ! Con xin đa tạ ân đức Hòa Thượng! con thấy con chưa làm được việc chi
để đền đáp ân đức của TAM BẢO cho xứng đáng được, con còn phải tinh tấn cầu TU
Học nhiều hơn nữa để tiếp nối sự nghiệp TỪ BI CỨU KHỔ ban vui cho chúng sinh
của ĐỨC PHẬT và chư vị TỔ SƯ…
Sư cụ
Thích Thanh Côn hiện đạng TRỤ TRÌ chùa Quảng Bá tại Thủ đô Hà Nội là đệ tử của
cố Đại lão Hòa Thượng PHÁP CHỦ Thích Đức Nhuận trong những năm 1984 1988 HÀNH
GIẢ thường về cầu xin giảng thêm một số
điều trong Bộ Kinh Phạm Võng
Bồ Tát Giới Chú Giải và thường được cúng thuốc lên Hòa
Thượng Pháp Chủ. Năm 1988 sau 10 năm xa cách khi gặp lại SƯ CỤ TRỤ TRÌ CHÙA QUẢNG
BÁ rất hoan hỷ nói:
“ Xa
cách lâu ngày, nay lại có duyên tái ngộ thấy Thượng Tọa càng tráng kiện dũng
mạnh hơn xưa. Khi còn tại thế Hòa – Thượng thường tán than hạnh ham học ham TU
và Hạnh Dược Sư của Thượng Tọa. Ngày nay Thực hành được các công Hạnh “ ưng vô
sở trụ ” “ nghiêm trì giới luật ” “ Thượng cúng dường TAM BẢO, Hạ bố thí chúng
sinh ” đặc biệt là hạnh “ xả thí ” như Thượng Tọa không phải mấy ai có thể dễ
dàng làm được! Tôi lại rất thích việc Hành-Trì các pháp MẬT TÔNG dung THẦN CHÚ
ĐẠI BI gia trì vào cát, vào tro đem rải lên hoa màu, lúa mạ, lên cây trồng, cho
sâu, rầy chuột, bọ thú rừng khỏi cắn phá mà lại càng bội thu tốt lên! Phật Pháp
thậm thâm vi diệu có mấy người chịu khổ công TU LUYỆN để được thành tựu các
việc như Thượng Tọa đã làm!”
- Nam
mô A-DI-ĐÀ-PHẬT! Sư cụ quá khen hàng sơ cơ hậu học chúng con còn phải cố gắng
TU HỌC nhiều!...
Người TU HÀNH xây được ngôi nhà
chính pháp của ĐỨC PHẬT bằng GIỚI-ĐỊNH-TUỆ, giữ gìn được mạng mạch của PHẬT
PHÁP trong tâm mình rồi thì dù đi tới đâu ở bất cứ nơi nào cũng có thể kiến lập
ĐẠO TRÀNG TRANG NGHIÊM THANH TỊNH và đương nhiên không cần ai bầu bán tấn phong
cũng là TRỤ TRÌ ĐẠO TRÀNG vô danh đó ( không cần trưng bảng hiệu vẫn có người
tìm tới )
Người TU hành “ ưng vô sở
trụ ” không bị dính mắc vào đâu:
“
TAM – Y NHẤT BÁT VUI HÀNH CƯỚC
HIỆP SỸ DU
TĂNG Mến giang hồ
“ Ứng vô sở trụ” Chi ràng buộc?
“ Thi
sỹ nửa mùa”… hứng,,, làm thơ!”
Thật là rảnh rang an lạc!
“Tiện
đây HÀNH GIẢ tỏ lời cảm ơn các Phật tử: Dương Ngọc Tạo Pháp Danh Chúc Thành, Trần
Xuân Ái Pháp danh: Giác Đại, Nguyễn Thị Gạt Pháp Danh: Giác Hải, Nguyễn Thị Cán
Pháp danh Giác Căn, Nguyễn Ngọc Phi Pháp danh: Giác Phương, Vũ Văn Mực Pháp
danh: Giác Hưởng…đã tạo cho HÀNH GIẢ một “thời cơ” tốt để thoát khỏi TRỤ TRÌ CHÙA
QUẢNG PHƯƠNG TỊNH XỨ. Trước đó kể từ khi Phật tử tới xin xây cất chùa HÀNH GIẢ
đã từ chối không kham nhận nói rằng: “Các Phật tử cố gắng TU GIẢI THOÁT là quí
lắm rồi! Xây cái chùa chiền nếu không làm đúng pháp sẽ xẩy ra nhieuf điều tai hại
không lường được! tôi không muốn nhận lãnh chùa và không muốn làm TRỤ TRÌ một
ngôi chùa giàu có danh tiếng nào. Kẻ bần Tăng hèn mọn này chỉ vui ưa với cảnh
núi rừng am tranh vách đất đạm bạc thanh bần!”
…Bởi vậy khi bàn giao cúng chùa
QUẢNG PHƯƠNG TỊNH XỨcho Tỉnh hội Phật Giáo Tỉnh BÀ RỊA VŨNG TÀU để được rảnh
rang TU HẠNH XẢ LY theo sở nguyện:
“
TAM – Y NHẤT BÁT VUI HÀNH CƯỚC
HIỆP SỸ DU
TĂNG Mến giang hồ”
Xin nhận làm “TRỤ TRÌ lĩnh thọ
truyền TAM TẠNG,”
Là HÀNH-GIẢ MẬT TÔNG, sẵn sang
dung mọi phương tiện từ; Nhân tài vật lực mình có thể tạo được đi “CỨU TRỢ VÔ
THỜI HẠN ” ở bất cứ vùng thâm sơn cùng cốc nào nghèo khổ khó khăn xa Thầy thiếu
thuốc. Mạc dù có nhiều người cho là khó khăn cực nhọc, HÀNH-GIẢ vẫn thấy thanh
thản an lạc mà xướng lên rằng:
“ Vui biết mấy TRỤ TRÌ LƯU LINH TỰ!
Từ TÂY-NINH, BÌNH ĐỊNH… tới
SÔNG HỒNG,
Tận tâm cứu kẻ “ nhất sinh thập
tử ”
Ai thương người hơn HÀNH GIẢ
MẬT TÔNG ”
Và cảm niệm công đức với Sư muội
của mình là Sư cô Ngộ Mai hiện đang TRỤ TRÌ chùa PHẬT MINH xã Giao Hòa, huyện Châu
Thành, Tỉnh Bến Tre. Nên HÀNH GIẢ đã viết: “ Ôi sảng khoái TRỤ TRÌ LƯU
LINH TỰ!
KHI BẾN TRE, HÀ NỘI… lúc LÂM ĐỒNG,
“ Chí ngang dọc phiêu bồng làm Pháp lữ”
Ai “ Phớt đời ” hơn HÀNH GIẢ MẬT TÔNG!”
( Trích trong bài “Bóng Nhạn lưng
trời”)
“ Phớt đời ” là « Phớt
bơ” tám mối bận tâm ở đời : khen,
chê, được-mất, vui-buồn, vinh-nhục tám mối bận tâm thế tục này ví như tám luồng
gió bão nói theo danh từ PHẬT PHÁP gọi là « Bát Phong » Tám ngọn gió
cực kỳ hung dữ nayftuyf thời tùy xứ nó có thể tạo thành những luồng phong ba
bão táp quật ngã cả nhiều thế hệ, và làm cho nhiều người phải sống trong cảnh
thất điên bát đảo! Tám ngọn gió này chỉ thổi ngã được hàng phàm phu “ Bát Phong
” không thể làm lay chuyển được tâm của các VỊ TU HÀNH đã đạt đến “ TÂM BẤT ĐỘNG
”, “TÂM KIM CƯƠNG”
*
* *
CHÚ THÍCH: gồm 166 mục. Vì công
việc bận rộn nhiều chưa có thể viết lần lượt theo thứ tự từ đầu cho đến hết liền
được, cho nên HÀNH GIẢ phải suy xét xem mục nào cần hơn thì làm trước còn những
phần khác xin khất lại thời gian sau….
( Ngày rằm tháng 4 năm kỷ mão
(1999)
“Sau đó do bận viết “ Nhân Quả Giả
Thật ” và bận nhiều công việc lại không may bị ngã bệnh nặng và Hòa Thượng đã
qua đời (2005) công việc dang dở …”