XIN TRÍCH LƯỢC NHỮNG VẦN THI –KỆ TRONG
THI PHẨM “NHÂN - QUẢ Gỉả -THẬT”
TỲ KHEO THÍCH QUẢNG ĐỊNH
Sen hồng nở đẹp tháng hạ
Xoài thơm trông trái đợi vài năm
Ai chẳng gieo nhân đòi hái quả?
0004 . Ít tiền chê vải ít lụa tằm?!
Chơi bời bài bạc cùng
nghiện hút,
Của tiền đóng cửa vẫn
“chào đi”!
Tài sản đất nhà đều
“bay tuốt”
0012 . Sự nghiệp cha ông trông cậy gì?
Ba hoa khoác lác nhiều
gian trá,
Việc làm quấy quá, học
qua loa,
Chẳng khéo gieo nhân mong đầy quả?
0020 . Có chăng… chờ lượm vỏ rứng gà!
Lười biếng bụi đời người vô dụng,
Làm sao xây dựng vững tương lai?
VĂN VÕ SONG TOÀN đồng TRÍ DŨNG,
0028 . VĂN ôn VÕ luyện, ĐỨC kiêm TÀI.
Ai TU học làm
lắm điều ngang trái,
Thường cãi Thầy
ưa ngụy biện nói ngang?
Gieo giống lép
được chi mùa gặt hái,
0040 . Quả tốt tươi hay sầu héo phũ phàng ?
Ai học mãi sách
loạn ngôn nghịch lý,
Học tranh công
bới lỗi học làm chi ?
Học chẳng TU
luống uổng công tín thí,
0052 . Học cống cao ngã mạn được ích gì ?
Ai học lắm
thường sân si châm chọc,
Bằng cấp cao mà
văn hóa không cao ?
Ai cao học tệ
hơn người thất học,
0056 . Bậc trên mình, chẳng biết lễ kính chào.
Tôn tượng lớn
tâm người sao chẳng lớn ?
Cất chùa cao
sao đức hạnh không cao ?
Tâm bố thí cúng
dường thường lợn cợn,
0060 . Người TU danh TU lợi đứng bậc nào ?
Ai TU-HỌC luyện
rèn từng tế hạch,
Vui thực hành
uốn nắn mỗi oai nghi ?
Cùng Đại chúng
hòa nhập dòng thác mạnh,
0064 . Tịnh TU nơi am thất cũng nghiêm trì.
Tránh vỏ dưa bị
vỏ dừa dai quấn,
Thoát bọn
nayfgawpj lũ khác tệ hơn !
Thấy người giúp
« đào » vô cùng tận ?
0080 . Chẳng toại tâm liền trở mặt giận hờn !
Tâm hoang dã
khó thuần hơn voi cọp
Kẻ ác tham xưng
Bồ Tát Đại Thừa,
Ôi « lòng
thú hình người đầy lớp lớp »,
0084 . Xót « cảnh đời gió gió lại mưa mưa »(3)
Kiếp trần thế
muôn khổ đau chồng chất,
Bởi vì sao
không đùm bọc thương nhau ?
Không cứu giúp
lại mưu toan giành giật,
0088 . Làm sao cho nhân thế hết khổ đau ?
Ai tỉnh bơ
trước cơ trời hủy diệt
Nghiệp ác tham,
vay trả kiếp vô thường,
Dù sợ chết ai
làm sao khỏi chết ?
0100 . Gấp TU hành cầu PHẬT vãng TÂY PHƯƠNG !
Người nghĩa sỹ
gánh chịu nhiều chướng nạn,
Vững tay chèo
qua biển vượt cuồng phong,
Nhiều chướng
nạn càng tinh thông dày dạn,
0112 . Đích cần xa vẫn bền chí yên lòng.
Ai cực khổ cầu
TU mong thoát khổ ?
Ai tìm TU do
ngộ lý vô thường ?
Lo cứu độ càng
gắng phần tự độ,
0116 . Ai ĐỒNG-HÀNH ĐỒNG-NGUYỆN vãng TÂY PHƯƠNG
Ai mến những anh hùng LƯƠNG-SƠN-BẠC.
Chiêu HIỀN-TÀI
ĐẠI-NGHĨA cứu lương dân,
Thời mạt pháp
ai thật là Bồ Tát,
0120 . Tự độ thân thương cứu khổ nhân quần.
Bị phỉnh gạt
chạy theo là đa số,
Ai quyết tìm
hiểu rõ mới tin theo ?
Kẻ tham ác
thường dối lừa dụ dỗ,
0132 . Ai biết sai vẫn cuồng tín giáo điều.
Cướp tiền của
bị đời chê « Phước bạc »
Trộm từ chương
người trí quả « vô minh » !
Sao chẳng viết
Bảo-Thư trình Sáng Tác,
0140 . Sách Tiền-Nhân chắp vá để tên mình.
Ai mãi phải
quan tâm điều nhỏ nhặt,
Lý cao siêu,
PHẬT PHÁP học để đâu ?
Ai chẳng khéo
tùy duyên hay chấp vặt,
0152 . Thường vui bàn tán chuyện Tây Tàu.
Muôn ngọc quí
chưa ưng cầu một chữ,
Làm sao cầu LỤC
TỰ ĐẠI MINH VƯƠNG ?(8)
Ai hiến mạng cầu
đôi dòng văn tự,
0156 . Kẻ ngu si coi PHÁP-BẢO tầm thường !(9)
Ai noi gương
bậc Quốc Vương Tây Tạng,
Điều căn bản
PHẬT-PHÁP học đầu tiên.
Dâng ngàn vàng
CẦU ĐẠO không tiếc mạng,
0160 . Nguyện PHẬT PHÁP xương minh hiến thân liền !(10)
Khi cần nói
không mở mồm nói được,
Chuyện bao đồng
ưa thuyết giảng lung tung,
Khi hào phóng
tô công hầu, bá tước,
0180 . Lúc hiên ngang như hảo hán yêng-hùng !
Lời hứa nguyện
hão huyền tung theo gió,
Ai vui vẻ buồn
khó tính tìm đi ?!
Ai thường đứng
núi này trông núi nọ,
0184 . Ai TU chơi ? ai Tu thật ? nghiệp chướng gì ?
Ai bắt nghiện
từ thuốc trầu hành ớt,
Ngấp nghé gần
ma túy cần sa,
Nói rằng
« thiếu » ăn nhạt mồm khó nuốt,
0200 . Về TÂY PHƯƠNG nhớ tỏi,ớt ta bà.
Ai TU luyện
quyết vượt qua biển khổ,
Ai mượn TU tính
lợi lớn to danh ?
Ai dạy lắm học
trò thi không đỗ ?
0204 . Ai độ vài đệ tử đạt viên thành?
Ai tần tảo bởi
lợi danh quyền vị,
Dễ tùy duyên
thường bỏ phí công phu ?
Ai hiếu động
tìm đông vui du hý ?
0208 . Ai về nơi thanh vắng chí Tâm TU ?
Ai quyết liệt
tranh giành lo sợ mất ?
Rủ nhau xây
khách sạn ở trần gian !
Ai biết khổ GẤP
TÌM CẦU TU PHẬT ?
0212 . Bỏ trần gian về an tịnh NIẾT BÀN ?!
Nơi mạt Pháp tâm người càng hoang dã
Bả lợi danh thật đã chán thừa?!
Đưa đường mới người nói “xa lạ quá”
0220 . Quen lối xưa, ngựa quay lại đường xưa.
Ai cực khổ quyết vượt qua tất cả,
Ai TU hành thích nhàn hạ dong chơi?
Ngoài đời khổ về chùa an lạc quá!
0228 . Tưởng đời vui ai ngóng cổ ra đời?!
Quên Thầy bạn thân thương nơi chùa thất,
Ai nửa chừng hờn giận bỏ Thầy đi,
Ai dày dạn “bát phong” không “được mất”,
0232 . Không “buồn vui” “sướng khổ” “nhục vinh” gì?
Nói thì dễ làm lắm khi chẳng dễ,
Nói xong liền làm thấy “bể” điên đầu!
Hàng “giảng giả” thuyết sư nhiều vô kể,
0244 . Bậc MINH SƯ HÀNH GIẢ biết tìm đâu?(16)
Ai đã tắm BIỂN PHÁP MÀU PHẬT-LÝ,
Dược sư nào tìm thuốc ĐẠI-TÙNG-LÂM
PHẬT truyền pháp hai mươi lăm thế kỷ,
0248 . Ấy muôn nhà khoa học vẫn nghiên tầm!
Ai cực khổ vẫn bền TU-GIẢI-THOÁT,
Hành giả nào không giáp mặt “bát phong”
Ma quỷ phá chẳng lùi không hèn nhát,
0256 . Về quê CHA cùng tử quyết một lòng.
Ai mến TỊNH, ưa THIỀN, thâm tín MẬT,
Dung hòa cùng muôn điệu pháp NHƯ LAI?
Ai TU PHẬT thích làm theo hạnh PHẬT,
0264 . Gắng luyện mình, quí bạn, chẳng khoe tài.
Ai chê TỊNH khích THIỀN, bài bác MẬT,
Pháp môn nào không PHÁP BẢO NHƯ LAI,
Ai TU PHẬT không làm theo HẠNH PHẬT,
0268 . Thường khen mình, chê bạn, thích tranh tài.
Điều ác khởi bởi nơi tâm ác quỷ,
Việc tham si cuồng phát tại tâm ma,
Ma ngũ ấm trói
chặt vào ích kỷ,
0284 . Ma ghét ghen đố kị phá lục hòa.
Ma lường gạt,
ma tranh danh đạt lợi,
Ma đảo điên tìm
bới lỗi PHAP SƯ,
Ma trái phạm bỏ
Thầy không sám hối,
0292 . Ma sân si ti tiện giả nhân từ.
Người trì giới
quyết tâm TU thành PHẬT,
Kẻ buông lung
phóng dật hóa ra ma,
Người TRÍ TUỆ
khéo nhìn ra giả thật,
0296 . Ai chính chuyên ai tham ác gian tà.
Học TỪ-BI-HỶ-XẢ Tu thành PHẬT,
Đắm say trong ngũ dục mãi làm ma,
Kẻ giả dối người chí thành chân thật,
0300 . TUỆ NHÃN QUANG biết ai chánh ai tà.
Thật ghê tởm loài tinh ma tà quỉ,
Giả làm CHÂN THIỆN MỸ giống gười TU,
Khiến trần thế mê mơ say mộng mỵ,
0304 . Mãi trầm luân trong ba cõi ngục tù.
Tâm sân hận là
một loài ma quái,
Kết đồng minh
là loài quỉ vô minh
Sân tâm khởi
muôn đức lành hủy hoại,
0316 . Hại chúng sinh là hại chính thân mình. (21)
Ơn cứu độ đổ đi
tìm phá phản,
Kẻ vong ân bạc
nghĩa hóa Tà Tinh,
Học vài món
liền cống cao ngã mạn,
0320 . Ma tới đâu gây khổ nạn hữu tình.
Kẻ vọng tưởng
đâu biết mình vọng tưởng,
Như thuyền bơi
lạc hướng giữa biển khơi !
Người lạc hướng
không biết mình lạc hướng.
0324 . Chiều hải bàn thấy lệch đếch xa rồi.
Loài ma quái
chuyên rình tìm phá hoại,
Lũ tà ma ưa làm
hạnh tà ma,
Tâm BỒ TÁT
thường bao dung quảng đại,
0336 . Quí đẹp thay BI-HÙNG-TRÍ hải hà.
Ai nuôi những
loài ma trong tâm ý,
Có khi nào
quyết diệt chúng hay không ?
Nội ma muốn kết
bầy cùng ngoại quỷ,
0340 . PHẬT với MA đối lập chẳng tương đồng.
Ma quỉ khiến mê
mơ trong mộng mị,
Tâm ý thường
TỈNH-GIÁC rõ PHẬT-Ma
Hiểu tính
quỷ : quyết diệt dòng ác quỷ,
0348 . Thấu tâm ma : trừ hết quỷ ma tà !
Người dũng sĩ
từng xông pha chiến trận,
Chẳng bao giờ
khuất phục đám ma quân,
Thường dũng
mạnh tăng bội phần tinh tấn,
0352 . Đã hăng say càng phấn chấn tinh thần.
Thơ nhuộm máu bằng mấy lần bom đạn,
Thơ dãi bày khổ nạn khắp muôn nơi,
Thơ ru ngủ hầu cao lầu tửu quán
0368 . Thơ cuồng dâm đọc dở miệng hôi lời…
Thơ tình ái làm lắm người ngây ngất,
Đắm say nhiều khách đến tìm chơi,
Ôi ngán ngẩm phường ca ngân dâm dật,
0372 . Quí vần thơ làm lợi ích cho đời!
Ai thích luận thơ “Nàng Chơi” “Chàng Kết”
Ai ưa bình thơ tình hết duyên hờ,
Người thơ chết thơ ngẩn ngơ buồn chết,
0376 . Nghĩa trang nào dành chỗ để chôn thơ.
Thi sĩ nào rẻ ngôn từ thi luật?
Nghệ thuật nào không phục vụ nhân sinh,
Phường dâm dật xếp hàng phi nghệ thuật,
0380 . Nghệ nhân nào chuyên cứu khổ hữu tình?
Ai thơ thẩn vẩn vơ hình trai gái,
Kiếp luân hồi trôi nổi mãi Tử-Sinh?!
Ai thấu hiểu những nỗi đau nhân loại,
0384 . Dùng KỆ-THI thiện xảo cứu hữu tình!
Mỗi vần thơ là bát cơm manh áo,
Là diệu phương trừ sầu não đau thương,
Là thiện hữu chỉ đường là PHÁP-BẢO,
0388 . Là dược –thang trị chứng bệnh Mê-Cuồng
Diệu pháp PHẬT thấu tình đạt lý,
Xâm nhập từng tế hạnh mỗi oai nghi,
Tu giải thoát không buộc vào câu nệ,
0392 . Tợ lông bông mà cẩn mật nghiêm trì.
Xướng họa:
Tỷ phú mạng nguy lấy chi đổi chác?
Bậc danh y còn mắc bệnh
nan y?
Lo lắng hỏi
« làm sao CẦU AN LẠC »
0396 . Chẳng “TIN SÂU NHÂN – QUẢ khó TU-TRÌ”!
Xướng họa:
Tích tiền bạc lúc nguy đi đổi chác?
Dùng phép chi cứu bệnh tật nan y?
Hiền đức hỏi “làm sao THƯỜNG AN-LẠC”?
0400 . Vui tự nhiên, cười đáp “KHÉO TU TRÌ”
Cõi trần thế có những gì bền chắc,
Danh vị cao uy quyền lớn giàu sang?
Khi đắc thế làm vua thua làm giặc,
0404 . Phước cạn tiêu ai chắc giữ được vàng?!
Hai điều khó chẳng mấy người tránh được,
Là bệnh đau và tai họa bất thường,
Khéo TU TẬP duyên phước lành đời trước,
0412 . Hiện kiếp này được an lạc thanh lương!
Danh lợi lớn thường lắm khi trịch thượng,
Con người không quyền thế chẳng ra gì?
Loài Rùa Thỏ theo gót hàng Long Tượng,
0424 . Quyết đạt thành trí tuệ chẳng ngu si!
Người tu thật thích nghiêm trì giới luật,
Kẻ tu chơi thích phóng dật buông lung,
TU-GIẢI-THOÁT tâm hòa vui chân thật,
0428 . Về TÂY PHƯƠNG ai hăng hái đi cùng?
Ai biết có cha mình trong biển khổ,
Mẹ trôi chìm trong bão tố cuồng phong?
Thấy người khổ ai chẳng lo cứu độ,
0436 . Thương chúng sinh BỒ TÁT mãi đau lòng!
Thuyền BÁT NHÃ xin được là mảnh ván
Đóng tàu xe xin làm một cây đinh,
Đưa chúng sinh vượt qua BỜ-GIÁC-NGẠN,
0444 . NIẾT-BÀN vui đâu cầu hưởng riêng mình!
Ma Ngũ Ấm điều hành nên lắm việc,
Ai đập quăng năng xả lại chuyên Tu,
Ai dại sợ lãng quên do tiểu tiết,
0456 . Ai TU HÀNH không hạ thủ công phu?
Người đại phước bởi ham TU thiện phước,
Sẵn duyên lành vun bồi lớn thiện duyên,
Kẻ tham ác phước duyên sao có được,
0460 . TU kiểu chi thường thích lợi danh quyền?
Người đời học thành tài nên sự nghiệp,
BẬC TU HÀNH không chứng đắc gì ư?
Người gắng học siêng hành trong hiện kiếp,
0464 . Phàm phu đắc thành bậc MINH SƯ!
Ai đọc sách khéo luệ rèn theo sách,
Học người hay tránh né kẻ gian manh,
Nhiều bão táp còn mấy cây TÙNG BÁCH…
0476 . Vượt trùng dương nhạn về đích an lành
Con đẻ hỗn không bằng con nuôi thảo,
Tại gia ngoan hơn kẻ xuất gia ngoan,
Ai dũng mạnh NGUYỆN HỘ TRÌ TAM BẢO,
0484 . Sức Chim Ưng siêu việt hóa Đại Bàng
Người xuất gia đứng vào hàng mô phạm,
Mỗi oai nghi tế hạnh đẹp làm sao,
Làm và nói nhiều điều không thiện cảm,
0488 . Những người TU như thế đứng bậc nào?
Người HẢO TÂM XUẤT GIA TU quí nhât,
Ngũ ấm ma là “vị nạn XUẤT GIA”
Chưa GIẢI THOÁT muôn sự đều không thật,
0492 . Như người mê trong Huyễn Mộng thôi mà !
« Kẻ cùng
tử » quên mình là PHẬT TỬ,
Bệnh nhân quên
là con « Đại Y Vương »
Ai ĐỒNG-HẠNH
ĐỒNG-TÂM ĐỒNG PHÁP-LỮ,
0500 . Về quê CHA vui thẳng hướng chung đường !
Kẻ tham ác lúc
khổ nguy tìm tới,
Giả bộ TU giả
đạo đức nhân từ,
Ai dối gạt lừa
Thầy cầu danh lợi,
0512 . Ai trọn tình nhân nghĩa với TÔN SƯ ?
Ai thấy khổ cảnh tranh đua trần tục,
Chạy đua tài đua sắc
chạy tranh danh,
Mỗi đoạn đường lắm người ca hành
khúc,
0520 . Về “TÂY PHƯƠNG” ai đồng nguyện
đồng hành?
Việc
đơn giản khuých trương hiều kẻ thích,
Điều CAO SIÊU kêu khó ít người theo.
Ai thấy tiếc tháng ngày trôi vô ích,
0528 . Gắng TINH-CẦU DŨNG MẠNH đạt CAO-SIÊU,
Ít mà tốt hơn số nhiều hỗn tạp,
Rằng “Quí hồ tinh, bất quí hồ đa”!
Tham nhiều pháp chẳng thành công một
pháp,
0532 . Chê củ Sâm, muốn ôm một rổ
cà?(23)
Biêt “căn tánh người nay đà kém
loạn”,
Thường “nói hay làm phỏng được bao
nhiêu”?
Nói THẲNG-THẬT-LÒNG dáng mời khẩn
khoản,
0536 . Lắm người nghe như gió thoảng mây
chiều!
Ai đã gánh chịu nhiều mất mát,
Bởi coi Thầy rẻ mạt giống thường
dân,
Ai đại PHƯỚC thấy THẦY mình là PHẬT,
0540 . Thầy độ cho được tốt đẹp muôn
phần!(25)
Cục sắt rỉ đem vàng
« si » gian trá,
Kẻ mê vàng mờ mắt ngỡ vàng y,
Vật hào nhoáng là những đồ xấu giả,
0556 . MẮT MÊ MỜ Vàng Tường Đá quăng đi.
Trừ Ma Nghiệp kiên cường trì MẬT
CHÚ,
LẮNG TÂM THIỀN thường an định thanh
lương,
Muốn công đức kết thành như núi tụ,
0560 . Hồi hướng về TỊNH ĐỘ vãng TÂY
PHƯƠNG.
Ai ngán ngại gặp đắng cay cực khổ,
Không khổ đau đâu tỉnh ngộ tìm TU?
Giữa biển khổ thuyền lướt về bến đỗ,
0568 . Thoát trần gian, vượt ba cõi ngục
tù.
Người HIỀN ĐỨC thật tâm TU là PHẬT,
Kẻ ác tham giả dối mãi làm Ma!
Ma xấu giả, PHẬT nghĩa nhân
chân Thật,
0572 . Ai chẳng phân TÀ-CHÍNH PHẬT- ma à ?
Người TU
PHẬT thật là Nhà Cách Mạng
Suốt đời
lo giết giặc dốt tham sân,
Trừ diệt
hết các loài Ma biến dạng,
0576 . Chuyển thói hư tật xấu hóa TÍNH CẦN.
Ai hiểu
rõ quy y là nương tựa :
Nương
tựa vào TAM BẢO : PHẬT-PHÁP-TĂNG
« Nương tất cả » hay chỉ « Nương một nửa » ?
0584 . Ai dở dang ? Ai ân trọng thường hằng ?!
Gương NGUYỄN
TRÃI bậc nghĩa nhân hào kiệt,
Diệt xâm lăng
cứu khổ nạn muôn dân
Biết tâm địa
bọn dâm vương quỷ quyệt,
0592 . Ai còn ham làm dũng tướng trung thần.
Bàn binh lược
ân cần tìm NGUYỄN TRÃI,
Luận bình thơ
thường tưởng nhớ ỨC TRAI,
Tình bất diệt,
hồn thênh thang quảng đại,
0596 . Ơn ỨC TRAI đưa tìm gặp THIÊN TÀI.
Làm mà thấy
không « phải » làm chi cả,
TU làm sao mà
thấy chẳng « phải » TU
Có người nói
không Từ-Bi-Hỷ-Xả,
0604 . Khi lờ đi như kẻ điếc câm mù,
Ai thanh bạch
như Khuất Nguyên tuẫn tiết,
Vạch mặt bầy
gian ác lũ hôn quân,
Ôi cao quí
những tấm lòng trung liệt,
0620 . Ai tri ân vui hạnh ngộ một lần.
Tình bạn đẹp
như Dương Khuê, Nguyễn khuyến,
Tử kỳ “quí ” ai
đàn bản “Ly Sầu”
Cảnh “trống
ngược kèn xuôi ” thường xuất hiện,
0644 . Người tri âm tri kỷ biết tìm đâu?
Duyên phước lớn
nói tin sâu lời PHẬT,
Phước duyên sơ
PHẬT dạy chẳng tin đâu!(25)
Người-Đại-Phước
vững lòng TU CHÂN THẬT,
0648 . Gội nhuần trong biển PHẬT-PHÁP nhiệm màu
Ai quá khổ mới
tìm cầu thoát khổ
Cảnh chim lồng
cá chậu xót thương thay!
Đàn linh Điểu
vượt trùng dương sinh tử
0652 . Hướng trời Tây bay mải miết đến ngày.
Nhà nghiên cứu
như kỹ sư tìm mỏ,
Thấy VÀNG không
khai thác chẳng lợi chi,
TU-GIẢI-THOÁT
cũng như người học võ,
0660 . Đọc thiện hay không luyện chẳng ích gì.
Học là để biết
đường đi thẳng tiến,
Hành là đi
đường đúng đích tới nơi
Đường đã biết
chẳng đi nên chẳng đến,
0664 . Học không hành là lý thuyết suông thôi.
Danh vọng hão
làm lắm người khốn khổ,
Ở trần gian ai tỏ
ngộ vô minh,
Bẫy xanh đỏ bỏ mồi ngon cám dỗ
0668 . Chim khôn nào khen lồng đẹp nhốt mình?
Hỗn cha mẹ đời chê “đồ mất dạy”,
Phỉ báng Thầy đấy là “kẻ phản sư”,
Con hiếu thảo được nhiều người tin cậy,
0680 . Trò ác tham khó truyền dạy BI-TỪ!
Xướng họa:
Nghiệp ái dục làm lắm người chìm đắm,
Thiền sư thành thi sỹ bảy hiền thê!
Sóng dồn dập biển luân hồi sâu thẳm,
0684 . Tô Đông Pha còn nhớ cội Bồ-ĐỀ!
Nơi biển ái lắm người đang chìm đắm,
Muôn triệu người sầu khổ nghiệp phu thê,
Ai ngán sợ biển luân hồi sâu thẳm,
0688 . Quyết cầu TU ĐẮC THÀNH ĐẠO BỒ ĐỀ.
Nặng tình cảm coi nhẹ phần tư tưởng,
Tình : buộc ràng tưởng không thể siêu thăng,
Tâm BỒ TÁT siêu việt thường hướng thượng,
0696 . Thoát trần gian bay bổng cánh chim BẰNG.
Phạm PHẬT-PHÁP cầu CHƯ TĂNG giải
cứu,
Phạm Chân Tăng chẳng ai cứu nổi đâu?
Nhiều tội nhỏ chất chồng thành non Thái,
0700 . Nước rò lâu sóng biển cuốn chìm tàu!
Đông đệ tử không(nc) dạy nghiêm giới luật
“Thầy trò rồng” bao oán thật khó qua,
Ai truyền dạy mấy người TU-GIẢI-THOÁT,
0704 . Viên bảo châu hơn ngàn đá xây nhà!
Thường truyền pháp độ AN Tâm Từ trước,
Pháp không hành Tà Quái chẳng để yên,
Gươm cầm chắc giặc cướp không hại được,
0712 . Pháp siêng hành ma phải tránh xa liền.
TU phá giới như người đời phạm tội,
Phạm tội to không thể đạt tài danh,
Biết tội lỗi
liền chí thành sám hối,
0732 . Người THẬT TU đạo quả ắt viên thành !
Người nghĩa sỹ
quý anh tài hào kiệt,
An trong Thầy ân quí
bậc cao minh.
Loài Ma quái tìm nhân tài trừ diệt
0736 . Ghét ghen người hiền đức vượt hơn mình!
Thi thiếu điểm ai chấm cho đỗ đạt,
Công đức lành khiếm khuyết chẳng vãng sinh!(3
Ai dũng mãnh tinh cầu TU-GIẢI-THOÁT,
0744 . Vui ĐỘ-THA thường cứu khổ hữu tình!
Ai TU-PHẬT lại biến thành Ma Quái?
Bởi Tâm-Ma làm
tổn hại chúng sinh !
Nói thật tốt
làm lắm điều sai trái,
0748 . Ai gạt người lừa PHẬT tự dối mình ?!
Ai chịu cảnh đa
sư làm hư bệnh,
Đây vài hôm
chữa thầy khác vài hôm ?
Ai biết phạm
ngũ hành cung tuyệt mệnh,
0756 . Nam vài thang bắc vài “tễ”… ôm đồm ?!
Vua là vị quốc
vương trong một nước,
ĐỨC PHẬT là
PHÁP VƯƠNG cõi TA BÀ,
Ba ngàn triệu
hành tình cầu ân phước,
0768 . Sao xứng là vương tử PHẬT-THÍCH-CA ?
Xướng họa :
Vua cho con ở
vào nhà thế tục,
Hại ấu vương
phước hay tội chém đầu ?
Đệ tử PHẬT luôn
cầu TU thiện phước,
0772 . Phá người TU không tài giỏi gì đâu ?
Pháp Vương PHẬT
cho con vào thế tục,
Hại ấu vương
không thể giữ yêu đầu ?
PHẬT ban phước
chẳng cần tu hưởng phước,
0776 . Chẳng tu hiền không hưởng được phước đâu !
Gương đập vỡ
làm sao cho lành được ?
Dối giả hoài ai
còn đủ niềm tin ?
Chẳng quyết giữ
gương sáng lành từ trước,
0800 . Đập vỡ gương ai còn tiếc thương nhìn ?!
Săn ăn học có
bằng nên quyền thế,
Dễ trở thành
người ngã mạn cống cao.
Ai tu tập luyện
rèn bằng huyết lệ,
0804 . Vượt gian nan thành tựu đáng tự hào.
Tham ác nặng là
tiểu nhân La-Sát,
Ưa thích làm
điều thất đức bất nhân,
Thường cứu khổ
là trượng phu BỒ TÁT,
0816 . Xả thân vào « nhà lửa » cứu nhân quần !
Ai ân trọng ai
trở tâm gàn quải ?
Kẻ trước ngang
khó truyền dạy người sau !
Ai chí nguyện
kiên cường không ngán ngại,
0824 . Khi hiểm nguy thường dũng mạnh đi đầu.
Bác học nào đội
than nghiên cứu sét ?(36)
Bồ Tát nào vào
ác thế độ sinh ?
Ai thường nói
không làm như con két,
0828 . Thật độ sinh hay lo lợi riêng mình ?!
Xướng họa :
Vòng Ngũ dục ai
thực tâm buông bỏ ?
Ai xa lìa tài
sắc với lợi danh ?
Tìm theo bậc
MINH-SƯ vô cùng khó
0832 . TU kiểu chi ưa thuyết chẳng ưng hành.
Ngôi bá vị
vương quyền ai vui bỏ ?
Ai thật lìa
huyễn lợi với hư danh ?
TU-GIẢI-THOÁT
theo PHẬT vô cùng khó,
0836 . Không cao siêu vương tướng chỉ TU HÀNH !
Xướng họa :
Tự độ, độ tha
ít người làm được
Thường thích tu
thong thả một đời thôi !
TU-GIẢI-THOÁT
chẳng cần nhân thiên phước.
0844 . Ai tới nơi kẻ trước mới đi rồi !
TU-GIẢI-THOÁT ít người tìm tới
được,
Thường thấy tìm
cầu danh lợi mà thôi !
Tu ĐẠI-TRÍ
ĐẠI-HÙNG muôn Thiện phước
0848 . Ai tới nơi có người mới đi rồi !
Nơi thật tốt có
người tìm tới được,
Thường tới nơi
dang dở giữa chừng thôi !
Người duyên
phước tìm tới người duyên phước,
0852 . Kẻ duyên sơ phước bạc mới đi rồi !
Loài quỉ quái ác tham chê PHẬT xấu,
Lũ Tà-Ma gian trá tốt đẹp sao?
Hạng Ngưu-Cẩu nhập với
bầy Ngưu-Cẩu,
0864 . Ngũ ấm Ma dụ dỗ kéo lôi vào?!
Đệ tử PHẬT chí thành sao quá ít,
Giả xưng danh PHẬT tử biết bao nhiêu…
Nơi danh lợi kéo về đông nghìn nghịt
0868 . Người xả thân vì đạo chẳng có nhiều!
Ai chắc sống được bao nhiêu năm nữa?
Chẳng gấp TU còn xuôi ngược lăng xăng
Ai tự tại chờ Diêm Vương gõ cửa,
0872 . Chẳng quyết TU đòi giải thoát được chăng?
Tu văn nghệ say mê lời đường mật,
Ưa mến người khen tặng thích thảnh thơi !
Người TU thật
Tâm hòa vui chân thật,
0888 . Thầy dạy răn ân trọng quí từng lời !
Muôn người TU
chẳng mấy người thành tựu :
Nghiệp sâu dày
công đức quá mỏng manh,
Làm sao thoát
Ngũ-Ấm-Ma buộc níu ?
0892 . Thật QUYẾT TU GIẢI-THOÁT được an lành !
Tôn tự ngã cho
ta là quan trọng,
Tưởng thiếu
mình đại sự chẳng thành công ?
Sông Hồng cạn
Biển vẫn dâng tràn sóng,
0924 . Ruộng ai hoang lúa vẫn đầy đồng ?
Kẻ mù mắt sờ
voi không khắp được
Thương thuyền
ai lạc hướng giữa biển khơi,
Đàn hậu tấn học
điều hay người trước,
0928 . Người xướng lên kẻ ứng họa tuyệt vời !
Nhân tâm loạn
khiến lòng người ly tán,
Thất-Nhân-Tâm
không hòa hợp muôn lòng.
Kẻ bạc nghĩa vô
ơn thường phá phản,
0932 . Tà lộng hành chân chính chẳng thành công ?
Mấy chục năm
luyện Thần Thông lướt sóng,
CHÍ NGUYỆN
TU-GIẢI-THOÁT có hơn không ?
Quên ĐẠI SỰ
TỬ-SINH là quan trọng,
0940 . Thích viển vông Ma-Sự chuyện bao đồng !(38)
Xướng họa :
Tâm Ma quái
thường đảo điên xảo trá !
Người nghĩa
nhân không dối giả ghét ghen,
Kẻ mạt hạ làm
lắm điều hèn hạ,
0948 . Bậc trượng phu khinh ghét việc thấp hèn !
Kẻ tham ác tâm
đảo điên xảo trá,
Bậc hiền nhân
không dối giả ghét ghen,
Hạng hèn ha ưa
thích điều hèn hạ,
0952 . Bậc thượng nhân thương xót kẻ thấp hèn !
Xướng Họa :
Nhiều chuyện
vặt trần gian chưa dứt bỏ,
Làm sao cầu
ĐẠO-GIẢI-THOÁT cao siêu ?
TU-CHÂN-THẬT
thấy nhiều điều sáng tỏ,
0968 . Nghiệp trần tan thanh thản nhẹ tiêu diêu.
Ôi sảng khoái
niềm hân hoan buong bỏ,
QUYẾT CẦU TU
ĐẠO GIẢI-THOÁT CAO SIÊU,
Mây đen hết
trăng rằm càng sáng tỏ,
0972 . Vui đẹp sao miền AN-LẠC tiêu diêu !
Ham Ngũ Dục tâm
trí đày phiền não,
Khách trần ưa
Người TU thấy chán khinh…
Tâm trần tục
nhục nhãn nhìn TAM-BẢO,
0984 . Tưởng người TU cũng ham muốn như mình,
Nơi trần tục ai
say tìm dục lạc,
Ai gấp cầu ĐẠO
GIẢI-THOÁT TÂM LINH,
Thường tỉnh
giác khuyến tấn người tỉnh giác,
0988 . Mình an vui cùng an lạc hữu tình.
Mới Tu tập khó thực hành kham nhẫn,
Muôn khổ đau hờn giận xé tâm can,
Cầu Thầy độ dứt não phiền vô tận,
0992 . Cho buồn thương sầu hận khỏi dâng tràn.
Khéo hòa giải làm tiêu tan chiến trận,
Thường diệu phương “bất chiến tự nhiên thành”
TRUNG-ĐẲNG-SÁCH đánh đàn cùng binh vận,
0996 . HẠ-ĐẢNG-PHƯƠNG dàn trận quyết tranh giành.
Tiếc bụi mía đọa làm sâu đục mía,
Mãn kiếp sâu THIỀN SƯ sẽ về đâu ?(39)
Y-Áo,
chùa…xe…vuốt ve…ngắm nghía…
1008 . Chùa am nào nghe chó sủa « Gâu Gâu »
Tiếc bụi mía
Thiền Sư còn đọa lạc,
Kẻ đắm say Ngũ
dục GIẢI-THOÁT không ?
Lắm tật đố ghét
ghen, nhiều tham ác,
1012 . Tu làm sao khỏi đội gạc mang lông ?
Xướng họa :
Kẻ không học
chẳng hành Ngu Hèn mãi,
Người xa lìa
Ngũ dục ấy CHÂN-TU,
Ai thường học
bậc cao minh thông thái ?
1016 . Ai ưng làm « vua chuột ở xứ mù » ?
Gắng tìm học
chẳng chịu ngu hèn mãi,
Quyết luyện rèn
theo các bậc CHÂN-TU,
Luôn cầu học
bậc cao minh thông thái,
1020 . Chẳng ưng làm « vua chuột ở xứ mù » !
Biết điều tốt
chẳng làm là kẻ dại,
Thấy người hay
không học lại càng ngu,
Quyết học mãi
thành cao minh thông thái,
1024 . Học dở dang làm « vua chuột ở xứ mù » !
Xướng họa :
Kẻ học võ giang
hồ nơi sơn dã,
Người võ đường
trao bằng cấp huyền đai,
Khi lâm trận
lại cười ai gục ngã
1028 . Thắng bại phân khi tỷ thí võ đài !
Ai tu luyện
kiên cường miền sơn dã,
Tu học đường
như võ sĩ huyền đai,
Dấu với
Quỉ-Vô-Thường ai gục ngã,
1036 . Trận cuối cùng làm sao hát trên đài.
Nơi nhà lửa mãi
mài gươm trí tuệ,
BỒ TÁT nào
thương ân niệm THẾ TÔN,
Người nghĩa sĩ
dạn dày nơi trân thế,
1040 . ĐẠO-NGHĨA-NHÂN QUÂN- TỬ mãi trường tồn.
Trừ diệt lũ vua quan
tham hung ác,
Hiệp sỹ nào tìm tráng sĩ KINH-KHA,
Danh lợi lớn không rảnh rang giải thoát,
1044 . Đại vương nào tìm theo PHẬT THÍCH
CA .
Không thích chứa bạc tiền tu tích đức,
Hạnh bần Tăng tiềm ẩn Bậc Phú Tăng,
Khi nhu nhược như gà con bất lực,
1048 . Lúc hiên ngang bay vút cánh chim bằng.
Người trí biết nhân tài là vốn quý,
Kính hiền nhân ân trọng những bảo thư,
Vui cứu khổ xả
lợi danh quyền vị,
1060 . BẬC CHÂN-TU thường HỶ-XẢ-BI-TỪ.
TU-GIẢI-THOÁT
tâm dứt trừ vọng tưởng,
Xa lìa vòng Ngũ
dục chẳng đua chen,
Vui hạnh ngộ
những tâm hồn cao thượng,
1064 . Học NHƯ LAI luôn tự thấy kém hèn !
Ai thích luyện
Tâm ĐẠI-HÙNG ĐẠI-LỰC,
Ai ưng rèn
ĐẠI-TRÍ ĐẠI-TỪ -BI ?
Muôn phiền não
trần lao xin tuyệt dứt,
1068 . Hướng trời Tây nhập thắng hội Liên-Trì.
Vì sao gã dã
tràng xe cát mãi ?
Dị nhân nào tìm
Ông lão Ngu-Công ?
Bởi tham thực
cá mắc câu cuồng dại,
1072 . Hướng Trời Tây bay bặt dấu chim Hồng.
Bầy ếch nhái
bấy lâu ngồi đáy giếng,
Không biết trời
sông biển rông thênh thang,
Thương chim sẻ
đường xa chưa bay liệng,
1084 . Thấu hiểu sao sức trải cánh Đại Bàng ?
Ai vui sướng
quay cuồng trong huyễn mộng ?
Ai say tìm ảo
vọng giữa cơn mơ ?
Chào mào hót
đón bình minh gió lộng,
1088 . Rắn mùa đông mê ngủ đến bao giờ ?
Ai cao vọng đa
cầu ưa quyền tới,
Đắm lợi danh ưa
thích ở trần gian !
Thuyền ai hướng
bến BÌNH-YÊN lướt tới,
1092 . Giữa trần gian mà an nhập NIẾT-BÀN.
Tâm DUY-MA đâu ngại chùa thất nhỏ,
Ưng ĐẠI HÙNG ĐẠI-LỰC ĐẠI TỪ-BI,
Điều phục ác cần chi đòn thế võ,
1100 . ĐẠI-TỪ-BI HỶ-XẢ thật diệu kỳ.
Ai vui thích Hạnh Tu Trì MẬT-CHÚ,
Lập đạo tràng nơi hội đủ địa linh,
Hữu Bạch-Hổ tả Thanh-long…Thủy tụ…
1104 . Lưng tựa sơn cây tỏa mat hữu tình!(40)
Có Thực Pháp Y Phương Minh cứu mạng,
Còn muốn chi cố tình bỏ Thầy đi,
“Trùng sư tử ” biến mau cho khuất dạng!
1108 . Kẻ phản sư phá Đạo đáng được gì? (41)
Khéo trì pháp là cúng dường bậc Thượng,
Biết HẦU THẦY là công dức bậc Trung,
DÂNG TÀI-VẬT cúng dường xin hồi hướng,
1116 . Là phần công việc hạ xếp sau cùng! (43)
LUẬT-NHÂN-QUẢ bao trùm toàn vũ trụ,
Chính hay tà THIỆN-Ác xét nghiêm minh,
Kẻ phạm tội không thể tìm hối lộ,
1120 . Việc ĐÚNG-Sai Tội-PHƯỚC xử công bình!
Ai trình kệ không cầu ngôi vị Tổ,
Chỉ ưng truyền Quyền-Pháp độ chúng sinh,
TU GIÁC-NGỘ dẫn đưa người GIÁC-NGỘ,
1132 . Tự cứu mình vui cứu khổ hữu tình! (45)
Có chùa thất nghe thấy điều kỳ ngộ,
Thầy dạy trò tô mình bậc Sư Ông,
Huynh khiến đệ xưng con không thẹn lỗi,
1140 . Chuyện trần gian lộn xộn chẳng tương đồng.
Ai cúng Thầy như trả công làm mướn,
Thỉnh cầu an cứu mạng cúng vài trăm?
Cầu Pháp –Bảo Hộ thân như đồ mượn,
1144 . Khổ công truyền kẻ cầu Pháp bặt tăm!
Độ đệ tử hạng tiểu tâm tẹp nhẹp,
Học không hành ưa quậy phá lung tung,
Đua Dim cúp áo quần chuyện trò khoe dày dép,
1148 . Tự xưng hô như hảo hán anh hùng.
Đức PHẬT xả cả lợi danh quyền vị,
Thường ban vui tìm cứu khổ chúng sinh,
Ai luẩn quẩn mãi tranh giành ích kỷ,
1164 . Hại đối phương mưu chiếm lợi về mình?!
Ai học Pháp không thực hành đúng pháp,
Như kẻ nghèo xin đếm bạc Nhà Băng?
Nhiều ngân khoản bản thống kê phức tạp,
1176 . Nhà Băng giàu kẻ đếm bạc giàu chăng?
Chim Nhạn lướt theo Đại Bàng muôn dặm,
Trò ngược ngang ngăn cản chậm bước Thầy,
Nhắm về đích vượt trùng dương xanh thẳm,
1180 . Cánh Nhạn mềm thẳng hướng trời Tây!
Ai chấp nhặt vào âm thanh sắc tướng,
Mãi quẩn quanh tất bật việc trần gian?
Ai truyền dạy học trò nuôi mộng tưởng,
1192 . Ai độ cho đệ tử chứng Niết Bàn.
Ai thích sống hạnh thanh bần đạm bạc,
Kiên cường thay đệ tử PHẬT THÍCH
CA !
Tu danh lợi là tà ma hèn nhát,
1196 . Mãi trầm luân đọa lạc ở TA BÀ !
Ai chứng đắc
thân kim cương bất hoại,
Tự nhiên dùng
hành, tỏi, thịt rượi bia ?
Món rượu thịt
ngũ tân… ai biết hại,
1208 . Kính tin lời PHẬT dạy quyết xa lìa !
Dễ tùy thuận và
cũng ưa nghịch hạnh,
Lắm phiền oan
nhiều khổ nạn truân chuyên,
Danh lợi lớn
không phải là cứu cánh,
1212 . Ai đắm say ? ai thấy « phớt bơ » liền!
Tiền nhân bảo “khẩu khai thần khí tán”
Người nói nhiều tâm trí động không yên,
Ai “chỉ” “quán” tâm chưa từng tán loạn,
1216 . Ai thượng căn PHẬT TỔ ấn Tâm Thiền
Hành pháp văn tự dùng TAM-MA-ĐỊA,
Lắm thời thiền thường ứng KÊ THI ngôn,
Trí thô thiển nói lời chưa trọn nghĩa!
1220 . Bậc Cao Minh thương dạy lẽ sinh tồn!
Chưa vận dụng được văn chương Bác học,
Nói chân thành bằng ngôn ngữ bình dân,
Cầu xin được gội nhuần ơn mưa móc,
1224 . Bậc ĐA-VĂN giải nghĩa KỆ-ÂM-VẦN?
TU GIẢI-THOÁT đặt thành CHÂN-THIỆN-MỸ,
Quí đẹp thay Vương tử PHẬT THÍCH-CA,
SỰ HIỂN HIỆN quyện hòa cùng DIỆU-LÝ,
1228 . Bóng mây tan trắng sáng khắp ngân hà!
Là y sĩ cứu bệnh Ma tật Quỉ,
Hành cước TĂNG
hơn hiệp sĩ giang hồ,
Là TU-SĨ cũng
ưng là Võ-Sĩ,
1232 . Có khi là Thi sĩ …hứng…làm thơ !
Học PHẬT PHÁP
thường ban vui cứu khổ,
Thương bênh nhân gắng học Y-PHƯƠNG-MINH,
Sợ dốt học văn
chán hèn học võ,
1236 . Học thiên văn địa lý để yên mình !
Ai dạy luật để
hành không giới luật,
Ai chân truyền
hiểu diệu nghĩa PHẬT-KINH ?
Ai đào luyện
kiên cường trong VÕ THUẬT,
1240 . Ai dạy thơ để lúc « LUÂN » khi « BÌNH » !
Ai đó
hỏi : học làm chi nhiều thế,
Suốt đời lo cứu
độ với nghiên tầm,
Tự xét
thấy : chưa làu thông PHẬT LÝ,
1248 . Phần thực hành chưa dày dạn cao thâm !
Ai TU hạnh kiểu Thi
nhân Hiệp sỹ,
Khi tụng kinh, hát kệ lúc ngâm thơ,
Thường cảnh
giác với những loài Ma-Quỉ,
1244 . Khi vui làm PHẬT sự lúc chuyên TU !
Chuyện người
khác tháng ngày rao giảng mãi,
Việc mình làm
không để lại gì ư ?
Ai bận rộn với
thu chi lỗ lãi,
1268 . Đếm đo hoài tìm « giá trị thặng dư » ?!
Khéo giải huyệt
là võ sư thượng đẳng,
Đệ tử ai nghiệp
nặng chẳng giải ư ?
Khi khỏe đến,
bệnh nguy « cho đi » thẳng,
1272 . Đại-Sư vào thường tiết kiệm Tâm ư ?
Ai mãi phải dạy
sơ cơ TU tập ?
Như mẹ già săn
sóc những con thơ ?
Trò thành
đạt…Thầy lao tâm …bầm dập,
1276 . Bến đò chiều ai còn ngóng… trông… chờ… ?!
Vương tướng nào
thường phất cờ kiêu hãnh,
Thật sướng ư ôi
một thoáng phù vân,
Ai dũng mãnh
thích thực hành khổ hạnh,
1280 . Thường an vui biết sống đủ thanh bần.
Khắp vũ trụ
hiện muôn phần linh hảo,
Nơi chúng sinh
đều là PHẬT đương lai,
Muôn THIỆN-Ác
Tự TÂM MÌNH KIẾN TẠO,
1284 . Ai Đại Căn không cần « PHẬT minh đài » ?
Ai ngán sợ chỉ
bày nơi khuyết ?
Ai mong cầu
truyền dạy chỗ sai lầm,
Ai quyết học
theo bậc Thầy siêu việt,
1288 . Luyện ĐẠI-HÙNG ĐẠI-TRÍ ĐẠI-BI-TÂM,
Diệu Pháp PHẬT
biết làm sao lĩnh hội,
Siêng năng mà
không phạm tội đua tranh,
Những bài học
bằng máu xương tiền bối,
1292 . Hậu-tấn xin ân trọng gắng TU-HÀNH !
Ai điều phục
được thất tình lục dục,
Chế ngự yên
những bầy Ngũ Ấm Ma,
Ở trần tục mà
an nhiên thoát tục,
1296 . NIẾT-BÀN đâu ? NIẾT-BÀN tại TA-BÀ !
Học theo Thầy
con nguyện là trò giỏi,
Theo hạnh Thầy
con làm những điều hay,
Ôi biển rộng
trời xanh cao vời vợi,
1300 . Con gắng TU đền công đức bậc Thầy !
Cha chẳng muốn
« con nghiện… say… bài bạc…
Thầy không ưa trò ngang ngược lông bông,
Cha uyên bác muốn con mình uyên bác,
1304 . Thầy tinh thông dạy trò đạt tinh thông!
Kẻ hèn nhát chẳng thành công võ thuật,
Đại võ sư: Quyền côn kiếm tinh thông,
THIỀN-MẬT-TỊNH… khéo hợp TU GIẢI-THOÁT,
1308 . Cùng “thõng tay vào chợ” tự nhiên không?!
Thầy gia hộ con thành công tất cả,
Thầy độ con thoát biển khổ điêu linh,
Thầy truyền dạy ĐẠI TỪ-BI-HỶ-XẢ,
1312 . Biết làm sao đền ân đức Thầy mình?
Ai thích sống trong nghĩa tình cao cả,
Quí đẹp thay THẦY HƯỚNG ĐẠO TÂM LINH,
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM TỪ-BI-HỶ-XẢ,
1316 . Con Gắng Tu đền ân đức Thầy mình.
Ai ân trọng kính tin Thầy như PHẬT,
QUYẾT TU-HÀNH không vướng bận lợi danh,
THẦY là PHẬT hiện thân TỪ BI nhất,
1320 . Đệ tử TU theo PHẬT nguyện Viên Thành!(47)
PHẦN CHÚ THÍCH:
Lời đề:
“Cẩm nang phước thiện diệu năng,
Thực hành tốt lành cuộc đời,
Cho một số người hữu duyên”
Những ai đã đọc sách “Tam Quốc Diễn Nghĩa” trong kho tàng văn học cổ đại trung hoa đều nhớ câu: “ vạn đại quân sư Gia-Cát-Lượng
Nhất thông sơn hà Lưu-Bá-Ôn”
Khổng Minh Gia-Cát-Lượng làm quân sư cho Lưu Bị thời Hậu Hán. Là một chiến lược gia kỳ tài; giỏi về thuật dụng binh, tinh thông các thuật LÝ-SỐ NGŨ-HÀNH. Đã giành được nhiều chiến công hiển hách thời bấy giờ còn vang danh mãi về sau.
Trong thuật dụng binh Gia-Cát-Lượng đã vận dụng các mưu sâu kế hiểm để đem lại chiến thắng. Không biết đến sự hy sinh chết chóc của binh sĩ trên chiến trận đều là con em của Dân lành bị cưỡng bức vào cuộc chiến. Phải chịu muôn ngàn cảnh chết chóc đau thương. Khổng Minh đã bảy lần đánh bắt Mạch Hoạch. Hai lần dung hỏa công đốt cháy, làm chết thiêu cả chục vạn quân của Tào Tháo. Trong cuộc chiến này số người tử vong và thương tật nhiều vô kể…
Ôi thật là thảm khốc thê lương…trên thế gian này tùy mỗi xứ, mỗi nơi tùy theo quyền hành thế lực và thực tế của mọi quốc gia mà chế đặt ra luật pháp, có những điểm tương đồng hoặc khác biệt nhau. Luật pháp quốc gia nào cũng xử nghiêm tội giết người. Sát mạng phải đền mạng! Song có một qui luật bao trùm vũ trụ. Đó là luật giao NHÂN nhận QUẢ. Làm thiện hưởng phước báo tốt lành, làm ác phải chịu quả báo khổ “cắt một dao phải trả một dao, sát một mạng phải đền một mạng” . Làm tổn hại than mạng chúng sinh nào thì phải đền trả than mạng chúng sinh đó. “oan oan tương báo trong vô lượng kiếp luân hồi”
Ngày nay việc nghiên cứu binh pháp cổ xưa không phải ở cuộc chiến nào, hay chiến trường nào cũng đem ra sử dụng được cả, còn phải xét tùy thời, tùy xứ mà quyền biến chế giảm mới thoát khỏi thảm họa thất bại đau thương….
Việc áp dụng kế sách của Khổng Minh trong chiến tranh vô cùng khốc liệt. Làm sao có thể hóa giải chiến tranh mà không có thể đổ máu đau thương mới là THƯỢNG DIỆU SÁCH:””
“BẤT CHIẾN TỰ NHIÊN THÀNH” Bởi vậy hành giả nói:
“Chẳng ưng sách Không Minh đầy tội lỗi,
Thường vui ưa học VAN HẠNH Quốc Sư”
Mỗi khi có một cuộc chiến hay một sự kiện trọng đại xẩy ra, người ta thường đặt ra nhiều phương pháp giải quyết;
1- Phương pháp tốt nhất là THƯỢNG DIỆU SÁCH, THƯỢNG ĐẲNG SÁCH, Hay THƯỢNG DIỆU PHƯƠNG.
2- Phương pháp tốt thứ hai là: TRUNG ĐẲNG SÁCH hay là TRUNG ĐẲNG PHƯƠNG
3- Phương pháp thứ ba là phương pháp xấu nhất gọi là HẠ SÁCH. HẠ ĐẲNG SÁCH hay HẠ ĐẲNG PHƯƠNG.
Khi chưa nhập NIẾT BÀN còn trụ tại thế ĐỨC PHẬT đã hóa giải 8 cuộc chiến tranh mà không phải đổ vỡ đau thương, không đổ một giọt máu, không tổn hại một mạng người. Chỉ có đem tình thương hóa giải hận thù: “Dĩ Đức báo oán oán oán tiêu tan” dung pháp “TỨ VÔ LƯỢNG TÂM” TÂM; TỪ-BI-HỶ-XẢ mà ĐỨC PHẬT đã truyền dạy mới thật sự làm tiêu tan được tận gốc chiến tranh, mới thực sự hòa bình:
“ Khéo hòa giải làm tiêu tan chiến trận,
Thường diệu phương “bất chiến tự nhiên thành”
TRUNG-ĐẲNG-SÁCH đánh đàn cùng binh vận,
HẠ-ĐẢNG-PHƯƠNG dàn trận quyết tranh giành.”
THƯỢNG DIỆU-SÁCH thật ít người làm được,
TRUNG-ĐẲNG- PHƯƠNG áp dụng đã khó rồi,
Ma-Quỉ-kế khen là “tài thao lược”
Thường thực hành HẠ-ĐẢNG-SÁCH mà thôi.
Nhiều sự kiện có nhiều người cùng biết,
Không phải ai cũng giải quyết được đâu ?
Ưa HẠ SÁCH tranh giành cùng bắn giết,
THƯỢNG DIỆU-PHƯƠNG ai ân trọng hàng đầu.
Suốt 49 năm trời hoằng dương PHẬT PHÁP ĐỨC THẾ-TÔN đã hóa giải 8 cuộc chiến tranh khỏi bùng nổ. Ôi CÁCH MẠNG GIA có một không hai. Từ cổ chí kim trên thế giới này ! mỗi người chúng ta cũng đã từng nghe câu châm ngôn muôn thủa :
« Nhất nhân TU cứu Cửu Huyền Thất Tổ » hoặc câu :
« Cứu một mạng người phúc đẳng hà sa »
Trên đường TU hành giả xác định rằng : Việc TU HÀNH không phải chỉ lo phần tự TU tự ĐỘ của riêng mình. Luôn luôn nhìn thấu vô lượng khổ đau của chúng sinh mà tìm mọi phương tiện để cứu độ cho thoát khổ được an vui.
Với tâm nguyện như vậy nên hành giả đã không quản ngại khó khăn cực khổ để tâm tầm cầu các bậc cao tăng thạc đức MINH SƯ để học được các phần tinh hoa nhất của PHẬT PHÁP . Đặc biệt là các DÀN PHÁP MẬT TÔNG tối thượng, kết hợp với các pháp như ;Huyền môn, Y-Phương-Minh, môn Dưỡng Sinh của Bác học Ô-Sa-Wa, truyền nhân điện, châm cứu, bấm huyệt, luyện YOGA…
Những ai đủ phước duyên lĩnh trọn niềm kính tin TAM BẢO, khi gặp được những phương tiện thiện xảo như trên đều khen ngợi tán thán.Việc kết hợp một cách hài hòa tất cả các phương pháp vào việc cứu giải bệnh tật nghiệp chướng ; cho nhiều người đã phải mang những bệnh tật nan y khi được chữa trị thấy thật là linh nghiệm.
« PHẬT PHÁP, DƯỠNG SINH, Y…NHÂN ĐIỂN,
HUYỀN CƠ, YOGA, .. Dược …hay thay !
Bảy mũi giáp công dàn trận tuyến
Bệnh ma tật quỉ cũng tan bay. »
Có nhiều người đã mang phải bệnh tật chữa nhiều nơi không khỏi. Sau một thời gian ngắn về xin cứu chữa đã được chữa khỏi không tốn kém tiền bạc, không đến nỗi quá khó khăn. Với lòng ngưỡng mộ thỉnh hỏi Hành-giả đã vận dugj những phương pháp chữa trị nào mà được linh nghiệm như vậy ? Xin được truyền dạy cho những bí quyết đó. Hành-giả chẳng hẹp hòi dấu kín bí quyết của riêng mình, mà sẵn sàng truyền đạt cho những người hữu duyên. Để đáp ứng yêu cầu Hành-giả tạm thời ghi lại một số điều thiết yếu trong việc chẩn trị những bệnh tật nan y đã được chứng nghiệm hơn 20 năm qua ( Sau này nếu có thời gian, sẽ bàn kỹ hơn trong từng việc cụ thể) đó là : CHẨN TRỊ BỆNH BẰNG PHƯƠNG PHÁP THẬP CHẨN
Đây là phương phaspchaanr trị bệnh kết hợp nhiều môn mà hành giả đã thực hành và chiêm nghiệm nhiều lần trong hơn hai chục năm qua. Ban đầu dung phương pháp TỨ-CHẨN cổ truyền :
1- VỌNG CHẨN : nhìn nét mặt hình dáng của bệnh nhân mà xét bệnh.
2- VĂN CHẨN : Là nghe người bệnh và thân nhân của người bệnh kể lại bệnh.
3- VẤN CHẨN :Là hỏi những điều liên quan đến bệnh nhân
4- THIẾT CHẨN : là trực tiếp đặt tay xem mạch để biết tình trạng hư thực hàn nhiệt cụ thể của bệnh nhân thế nào ?
Tiếp đến kết hợp những phương pháp sau đây để chẩn đoán :
5 - TRUYỀN LINH CHẨN : khi bắt đầu tiếp xúc với người bệnh liền quán tưởng ĐẤNG THIÊNG LIÊNG mà mình hằng tin tưởng, ngưỡng mộ thường gia hộ cho mình luôn ngự trên đỉnh đầu mình ( theo kinh nghiệm bản thân Hành-giả thường Quán tưởng ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ngự trên đỉnh đầu tay phải kết ấn kiết tường trừ tà ma quỉ quái. Tay trái cầm bình cam lồ rưới thượng dược Cam Lồ tắm mát toàn thân bệnh nhân. Đồng thời trong tâm thầm niệm danh hiệu của NGÀI « Nam mô Đại Bi QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT… thật tha thiết liên tiếp không gián đoạn. Dù ngoài miệng có tiếp chuyện với mọi người trong tâm vẫn nhiếp trì một niệm danh hiệu ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT thật chí thành khẩn thiết – Quán tưởng ngài cứu khổ ban vui cho chúng sinh. Lại quán chính thân mình là con mắt trí tuệ chiếu soi thấy biết được nguồn cội của các nghiệp chướng chiêu cảm thành bệnh tật . Đồng thời cũng là một bàn tay Dược Sư dùng vô lượng phương tiện thiện xảo để cứu độ chính ngay bản thân mình và chúng sinh :
« Ngàn mắt quang minh khắp chiếu soi,
Ngàn tay trang nghiêm khắp nâng đỡ.”
Suốt thời gian trên hai chục năm qua Hành-Giả đã dung phương pháp “Truyền linh chẩn” này được sức gia hộ của ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT rất vi diệu )
Khi cần cứu chữa những bệnh nan y nguy cấp nên dùng phương pháp “Truyền linh chẩn” này để TRUYỀN LINH TRỊ để chữa trị như truyền nhân điện- Bấm huyệt, Án-ma, Xoa bóp…. rất hay. Hành-Giả dùng các phương pháp đó đã từng cấp cứu những bệnh nhân bất tỉnh nhân sự “nhất sinh thập tử ” và những bệnh nhân bị phần âm tà ám nhập hoặc các vong linh đeo đẳng oán đến… được hóa giải linh nghiệm cấp kỳ!
6 – VONG LINH CHẨN:
Trong suốt quá trình chẩn đoán bệnh cần xét kỹ qua từng bước:
a- Vọng Chẩn: Lương y chú ý từng cử chỉ, từng ánh mắt lấm lét nhìn láo lien, ưa nhìn trộm, hoặc sợ sệt lảng tránh quay đi. Bệnh nhân có phần âm tà ám nhập thường khiếp sợ các bậc TU HÀNH.
b- Văn Chẩn : Lương y nghe bệnh nhân hoặc thân nhân người bệnh kể về các sinh hoạt lộn xộn trí rối loạn không yên, đêm ngủ thường thấy có người âm dẫn đi lung tung. Khi ngủ hay mộng mị, những điều quái dị, nói năng, la hét, cười cợt vui buồn bất thường, Sắc mặt lúc tươi tỉnh lúc xanh tái . Một ngày sắc mặt thay đổi nhiều vẻ khác nhau.
c- Vấn Chẩn : Lương y hỏi; Bệnh phát bao giờ? Hỏi xem mức độ còn nhớ được việc bình thường hay bị lãng quên nhiều rồi? Đêm nặng hơn hay ngày nặng hơn? Thường thấy phát nặng vào giờ nào?
d- Thiết Chẩn : Khi đặt tay xem mạch trên ba bộ: THỐN-QUAN-XÍCH thấy có hiện tượng:
“Mạch thoạt “dài” thoạt “ngắn” là hình mạch tà quái.
Mạch khi “sác” khi “trì” thật mạch chứng quỉ mị”
Phần VONG LINH CHẨN rất vi tế phưc tạp vô cùng ứng hiện muôn hình vạn trạng. Cần nghiên cứu kỹ, các sự kiện cán đối nhiều kiếp luân hồi như sự tích của NGỘ-ĐẠT QUỐC-SƯ trong TỪ BI THỦY SÁM, kinh LƯƠNG HOÀNG SÁM…
7- CẢM NHẬN CHẨN :
Khi tới nơi ở của người bệnh Lương y sẽ có những cảm nhận;
a – Cảm nhận thấy sinh khí thịnh. Khi gặp bệnh nhân và than nhân của người bệnh Lương y thấy từ những người đó có những điều hoan hỷ vui vẻ ân cần tha thiết tin tưởng tận tâm tận lực mong cầu cứu chữa trị bệnh tật, cứu giải ghiệp chướng cho bệnh nhân hay không? Nếu hội tụ được những yếu tố này thì bệnh tật nguy nan cũng có thể cứu chữa được, ứng vào các câu của Thi Phẩm:
“ PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI ”
“ Con khổ thử ĐỨC-TÂM Cha Mẹ,
Cha Mẹ nguy thử ĐỨC-TÂM con
Đệ tử khổ: thử ĐỨC-TÂM Sư Phụ
Thầy nguy nan: thử trò có vẹn toàn ”
Và câu; “ Chồng khổ nạn thử đức tâm người vợ?
Vợ nguy nan do tâm địa người chồng?”
Hoặc : “ Hữu thỉnh hữu lai, cầu tất ứng ”
Và “ Bệnh khó tin sâu còn chữa được ”
Để rồi hưởng được những điều :
“ Duyên phước đủ niềm tin thành phép lạ,
Chuyển sầu khổ thành vui hưởng phước lành ”
b – Cảm nhận thấy “tử khí” vượng: Là nơi ở của bệnh nhân và thân nhân của người bệnh Lương y thấy từ những người đó có những đều mang nét mặt u sầu buồn bã, vẻ mệt mỏi bơ phờ, chán nản, bi quan…khi tiếp xúc không niềm nở chân thành mà hời hợt qua loa chiếu lệ, không tận tâm tận lực lo lắng chạy chữa cho bệnh nhân …thấy toàn bộ khung cảnh nơi người bệnh đang ở như bao trùm một bầu không gian âu sầu ảm đạm, buồn nản nặng nề…( Những điều này mỗi vị lương y đều cảm nhận rõ rang qua những căn bệnh trong suốt quá trình thực hành Y- Thuật của mình, để biết được rằng ở nơi này tử khí của người bệnh quá nặng nề đã lan truyền ra cả than nhân và cả không gian xung quanh họ) Nếu hội tụ được những yếu tố như trên thì ta biết được rằng; đây là bệnh nan y bệnh thập tử nhất sinh? “ Bệnh nghiệp ” hay “ Định nghiệp ”
ứng vào Thi Phẩm: “ PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI ” trong những câu:
“ Con khổ thử ĐỨC-TÂM Cha Mẹ,
Cha Mẹ nguy thử ĐỨC-TÂM con
Đệ tử khổ: thử ĐỨC-TÂM Sư Phụ
Thầy nguy nan: thử trò có vẹn toàn ”
Hoặc câu; “ Chồng khổ nạn thử đức tâm người vợ?
Vợ nguy nan do tâm địa người chồng?”
Thấy hiện trạng:
“Thuốc thang ngại uống không tin tưởng”
Và “ Bất cầu, vô thỉnh … thật vô phương”
Lúc đó liền biết được rằng:
“ THÁNH-Y cũng đành bó tay “chào”! ”
8 – THIÊN VĂN CHẨN: Hỏi biết rõ ngày giờ tháng năm sinh ( Phép xem giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh gọi là phép xem “bát tự” ) của người bệnh và ngày tháng năm phát bện. Xem việc làm nhà cửa có phạm vào kim lâu, hoang ốc, tam tai hay trúng sao hạn nặng của LUẬT-NGŨ-HÀNH?
“ Trúng tuổi Kim Lâu đâu dễ chữa
Phạm cung tuyệt mệnh sửa làm sao? ”
Rồi đối chiếu với ngũ hành tương sinh, tương khắc để biết được rằng dễ chữa, khó chữa hay bất trị.
9 – ĐỊA LÝ CHẨN : Biết tuổi biết cung mạng của người bệnh. Dùng địa bàn bát quái đặt tại trung tâm của căn nhà, rồi dung pháp phân kim điểm trạch đối chiếu cung ngũ hành để xem xét cổng ngõ, cửa ra vào, nơi đặt ban thờ, bàn làm việc, giường ngủ, bếp núc, giếng nước, sàn nước, cầu tiêu, chuồng gia súc… có trái phạm vào các cung tương khắc như: Tuyệt mạng, ngũ quỷ, lục sát, họa hại hay không? Tiếp đến dung cây “Thước cầu phước” ( Thước này tùy theo phước đức lớn hay nhỏ, có duyện nhận được những bảo thư, bảo vật cùng với phép sử dụng linh nghiệm để đón nhận những điều xấu xa, tai hại. Ban đầu có người đưa tới Hành-Giả cây thước 36 cm. Sau đó có người đưa tới cây thước 42 cm. Sau này lại có người đưa tới cuốn “Lịch sách tử vi ”
Năm Ất Mão của chime tinh gia Huỳnh-Liên có cây thước LỖ BAN với số đo 52 cm)
Có 08 cung lớn: mỗi cung lớn lại chia thành 02 phần, mỗi phần lại có 02 cặp, mỗi bên có chiều dài phân biệt từng cung theo ngũ hành: KIM-MỘC-THỦY-HỎA-THỔ để luận xét tương sinh tương khắc với bổn mạng của gia chủ thật chi tiết. Hành-Giả đã sử dụng và chime nghiệm thấy được nhiều điều rất hay!
Dùng cây thước LỖ BAN kiểm tra lọt long khung cổng, khung cửa chính, khung cửa phụ, khung bàn thờ, khung cửa bếp, khuôn bếp nấu ăn, bàn làm việc giường ngủ.v.v.
Phối hợp tất cả các yếu tố trên cung cấp cho ta lượng thong tin để có thể biết những điều từ trước cho tới naycacs thầy thuốc khác chưa tìm đúng nguồn gốc của những điều trái phạm mà chiêu cảm ra bệnh tật. Phương pháp chẩn này có thể là một bí quyết. “CHẨN ĐOÁN BỆNH CĂN NHÀ tìm ra bệnh người chủ nhà”
“ Bệnh chi khiến nằm kêu la rên xiết ,
Nhiều danh y Bác sỹ chẳng tìm ra ?
Vì sao khiến người chết, tiền của hết,
Ai biết rằng tai họa tại căn nhà ? ”
Phần địa lý chẩn này sẽ được bàn kỹ hơn trong chú thích:
“ Tả ao bảo địa linh sinh nhân kiệt …
Nơi âm dương sung mãn phát nhân tài
Tiên tích đức hậu tầm long khéo biết
Trăm ngàn lần đều ứng nghiệm không sai!”
10 – VÔ CHẨN CHẨN : Là trong khi chẩn bệnh cần kết hợp các phương pháp;
1- Vọng Chẩn
2- Văn Chẩn
3- Vấn Chẩn
4- Thiết Chẩn
5- Truyền Linh Chẩn
|
6- Vong Linh Chẩn
7- Cảm Nhận Chẩn
8- Thiên Văn Chẩn
9- Địa Lý Chẩn
|
Nhiều khi vào lúc cấp cứu chưa cần dùng phương pháp thứ 4 (Thiết Chẩn) và thứ 9 (Địa Lý Chẩn ) đã chẩn đoán được bệnh tình nặng nhẹ hay nguy cấp ở mức độ nào, liền có phương pháp trị liệu thích hợp. ( TÔN- HÀNH-GIẢ chẳng đã dung bí kíp dòng dây chẩn để chữa bệnh cho một vị Hoàng Đế đó sao? )
Sau khi đã chẩn đoán bệnh kết hợp những phương pháp như trên, có nhiều khi không phải thực hành cả 09 phương pháp:
1- Vọng Chẩn
2- Văn Chẩn
3- Vấn Chẩn
4- Thiết Chẩn
5- Truyền Linh Chẩn
|
6- Vong Linh Chẩn
7- Cảm Nhận Chẩn
8- Thiên Văn Chẩn
9- Địa Lý Chẩn
|
Chỉ cần thông qua 07 phương pháp trên quan trọng- nhất là dùng phương pháp thứ 5 (Truyền Linh Chẩn) nếu khéo thực hành phương pháp này được sức cảm ứng của ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT thì việc chẩn trị sẽ đạt kết quả hay nhất và nhanh chóng chưa cần dung phương pháp “Thiết Chẩn ” và “ Thiên Văn Chẩn ” “ Địa Lý Chẩn” đã biết rõ cội nguồn của bệnh trạng, liền có thể đề xuất biện phương trị liệu thích hợp kịp thời.
Chính bản thân bệnh nhân và thân nhân của người bệnh cùng các thầy thuốc khác không thấy Lương y trực tiếp cầm tay xem mạch, không thấy đặt ống nghe trên than thể bệnh nhân . Kỳ thật đã được chẩn đoán kết hợp theo bảy phương pháp như trên. Chẩn đoán theo phương pháp này, những người khác tưởng như lương y không chẩn đoán bệnh tình. Kỳ thật đã dược chẩn đoán băng phương pháp TÂM LINH TỔNG HỢP thật là thâm thâm vi diệu.
Suy xét kết hợp nhiều yếu tố để chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân mà bệnh nhân không thấy thầy thuốc để tay xem mạch, không thấy đặt ống nghe trên than thể bệnh nhân, chẳng đo huyết áp, chẳng chiếu chụp phim ảnh gì cho người bệnh. Rồi dung ấn KIM CANG QUYỀN đóng ấn vào nơi đau của người bệnh. Hoặc truyền linh điển, bấm huyệt, án ma, xoa bóp bầu giác, chích lể hoặc cho thuốc bệnh liền khỏi. Chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân mà người khác không thấy người chẩn đoán bệnh cho mình “Chẩn mà không thấy chẩn ” gọi là VÔ-CHẨN-CHẨN.
KẾT LUẬN: khi chẩn trị bệnh kết hợp được cả 10 phương pháp là tốt nhất, trường hợp cấp bách lắm cần phải chế lược cho kịp thời mà thôi.
Trong suốt thời gian hơn hai chục năm qua HÀNH-GIẢ đã chẩn trijbeenhj kết hợp bằng phương pháp THẬT CHẨN là tìm về cứu chữa tận gốc bệnh căn, làm cho việc cứu chữa bệnh tật, giải trừ nghiệp chướng được nhanh chóng đạt kết quả cao. Đỡ tốn kém tiền bạc có thể hóa giải thương đau sầu não cho nhiều người trong lúc khó khổ nguy…
Là người XUẤT GIA TU HÀNH đệ tử của ĐẤNG ĐẠI GIÁC THẾ TÔN, là học trò của ĐẠI Y VƯƠNG ĐIỀU NGỰ TRƯƠNG PHU THÍCH CA MÂU NI PHẬT với tâm nguyện tự độ độ tha tự giác giác tha không nề hà không ngán ngại một phương tiện nào mà kết hợp một cách hài hào vô lương phương tiện để cứu khổ ban vui như:
1 – Pháp lập ĐÀN SÁM HỐI GIẢI TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG
Siêng TU TRI TRỪ CÁI CHƯỚNG CHÂN NGÔN
2 – Pháp lập ĐÀN CẦU SIÊU cho chư hương linh cửu huyền thất tổ và các vong linh oan gia nghiệp báo tiền khiên ám nhập đeo đẳng.
“Mùa báo hiếu VU LAN tiêu giải tội
Mời TỐ NHƯ cùng cúng thí cô hồn ”
“Âm có siêu dương mới thái ” nhờ pháp lập đàn Sám Hối hóa giải oan gia nghiệp báo cho các vong linh được qui y TAM BẢO thọ trì giáo pháp của ĐỨC PHẬT. Các vong linh oán đối tiền kiếp hỷ xả buông tha người bệnh mới tiêu trừ được tận gốc bệnh tật nghiệp chướng.
Pháp lập ĐÀN SÁM HỐI GIẢI TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG kết hợp với Pháp lập ĐÀN CẦU SIÊU cho chư hương linh cửu huyền thất tổ và các vong linh oan gia nghiệp báo tiền khiên, để cứu giải cho những bệnh tật nan y “ thập tử nhât sinh” rất linh diệu “âm siêu dương thới ” là vậy!
3 – Trong công hạnh Độ Tha của BỒ TÁT HẠNH để cứu giải bệnh tật nghiệp chướng và thành tựu những mong cầu làm phương tiện thiện xảo đưa chúng sinh từ song mê về Bờ Giác phải xác định rằng:
“ Chữa bệnh cứu người không đơn giản,
Trị phần thân bệnh giảm tiêu nhanh ”
Cần phải biết:
“ Ai mang bệnh nghiệp ai đại hạn
Phương chi cứu phạm LUẬT NGŨ HÀNH ”
Còn bao nhiêu điều nan giải;
“ Trúng tuổi Kim Lâu đâu dễ chữa
Phạm cung tuyệt mệnh sửa làm sao? ”
“ Cớ chi sinh nữ không nam tử,
“Vô sinh ” “ Tuyệt tự ” chữa thế nào?”
Cùng các việc trồng trọt bị sâu rầy, chuột bọ, thú rừng cắn phá hoa màu lúa mạ. Hành-Giả đã dày công TU Trì ĐÀN PHÁP ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI bằng PHAN ÂM do VÔ NHẤT ĐẠI SƯ Truyền trao Pháp chú Đại Bi gia trì chú lực vào châu sa, Thần sa, vào cát, vào tro, vào thuốc vào nước sạch, vào niệt chỉ ngũ sắc hộ mạng.v.v
Cho các PHẬT TỬ được hưởng trọn niềm ân đức của TAM BẢO.
“ Gieo trồng làm sao sâu khỏi phá
Chuột bọ thú rừng chẳng hại chi
Linh dược hoa thơm cây trĩu quả
Khéo thực hành pháp chú đại bi ”
4 – Nước Trung Hoa vào thời TAM QUỐC Khổng Minh Gia Cát Lượng đã vận dụng phép lập đàn cầu gió Đông lập chiến công đại thắng miền Xích Bích, dùng Hỏa Công đốt cháy cả ngàn chiến thuyền, thiêu đốt mấy chục vạn quân TÀO THÁO.
“ Khổng Minh đại thắng miền Xích Bích
Bởi biết lập Đàn cầu gió Đông ”
Ở thế gian có sự phân chia Quốc gia, Đảng phái cho nên nếu làm bất cứ điều gì có lợi cho quốc gia mình, phe phái mình thì không cần biết đến sự tổn hại mất mát của đối phương làm chi! Sự oan oan tương báo đền trả trong vô lượng những kiếp luân hồi.
Người TU hành PHẬT PHÁP không thể làm như vậy, mà coi tất cả chúng sinh đều đáng thương và bình đẳng như nhau. Không thể vì muốn làm lợi cho chúng sinh này mà làm tổn hại đến chúng sinh khác!
Trong MẬT TÔNG có pháp lập đàn cầu mưa thuận gió hòa. Cầu tiêu tan tật bệnh, dịch tễ, cầu cho quốc gia hưng thịnh, nhân dân an lạc.
“ Quốc thái Dân an tan ôn dịch
Khéo lập đàn HÀNH PHÁP MẬT TÔNG ”
Giờ đây Hành-Giả chỉ có một điều tâm nguyện rằng những ai hữu duyên đã đọc thi phẩm: “ PHƯỚC DUYÊN MIỀN AN - THẠCH THÔNG MẠCH KHẮP MUÔN NƠI ” để rồi có thể đón được:
“ Mỗi vần thơ là bát cơm manh áo
Là DIỆU PHƯƠNG trừ sầu não đau thương
Là thiện hữu chỉ đường …
Là Pháp Bảo
Là DƯỢC THANG trị Tâm Bệnh Mê Cuồng ”
Tùy theo nhận thức của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi nơi trên mỗi miền xứ sở… nếu thấy vui ưa và khéo thực hành kết hợp một cách hài hòa:
“ PHẬT PHÁP DƯỠNG SINH Y NHÂN ĐIỂN,
HUYỀN CƠ YOGA DƯỢC …. Hay thay
Bảy mũi giáp công dàn trận tuyến
Bệnh ma tật quỉ cũng tan bay ”
Mỗi người đều phát tâm làm lành lánh dữ quyết vượt biển khổ sông mê về bến bờ GIẢI THOÁT AN LẠC.