Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Pháp vương Drukpa thuyết giảng tại VN


TT - Bắt đầu từ ngày 1 đến 17-11, Ðức Pháp vương Gyal Wang Drukpa - bậc lãnh tụ tâm linh của Phật giáo Kim Cương thừa Ấn Ðộ - sẽ viếng thăm và giảng dạy về Phật pháp tại Việt Nam. Một đời chân tu đắc đạo, Thượng sư cũng là bậc sáng lập, phát triển phong trào từ thiện quốc tế Sống để yêu thương (Live to love) tại nhiều quốc gia trên thế giới với những dự án thiết thực như giáo dục, cứu trợ y tế, bảo vệ di sản, môi trường.
Đức Pháp vương Gyal Wang Drukpa được Liên Hiệp Quốc trao tặng giải thưởng “Vì mục tiêu phát triển thiên niên kỷ” năm 2010 - Ảnh: ban tổ chức cung cấp
Trong năm 2010, các nỗ lực và đóng góp vì thế giới tốt đẹp hơn của Thượng sư được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế vinh danh qua các giải thưởng tôn quý như giải thưởng "Vì mục tiêu phát triển thiên niên kỷ" của Liên Hiệp Quốc, cúp "Anh hùng xanh" của Ấn Ðộ... Ðược kính ngưỡng là hóa thân chân thật của Ðức Quan Âm, Ðức Pháp vương hiện lãnh đạo hệ thống hàng trăm tự viện tại các quốc gia Nepal, Ấn Ðộ... cùng hàng chục trung tâm Phật giáo trên toàn thế giới.
Ðây là lần thứ tư Thượng sư Gyal Wang Drukpa đến Việt Nam. Thấu hiểu sự mất mát của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh, thiên tai, Thượng sư và tăng đoàn sẽ lập đại đàn cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ, đồng bào tử nạn tại chùa Vĩnh Nghiêm (TP.HCM, ngày 16-11). Ðặc biệt, nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (7-11-2011), Thượng sư có buổi tọa đàm trong chương trình Talk Việt Nam phát sóng vào 9g ngày 1-11 trên VTV4.
* Cũng nhân dịp này, tập sách Hành trình tâm linh siêu việt bao gồm các bài giảng của Ðức Pháp vương vừa ra mắt bạn đọc Việt Nam nhờ vào nỗ lực dịch thuật của Trung tâm Drukpa Việt Nam, liên kết xuất bản với NXB Văn Hóa Thông Tin. Với hướng tiếp cận đạo Phật như một triết học để ứng dụng cho đời sống mỗi người trong hiện tại, tập sách là những lời khuyên dành cho những ai mong muốn tự mình khám phá con đường tâm linh của bản thân, qua đó đạt được những thành tựu trong đời sống này.
Tập sách trình bày các thuật ngữ thông dụng của nhà Phật theo cách hiểu của dòng pháp Kim Cương thừa - một góc độ mới cho độc giả Việt Nam, những người vốn quen với cách hiểu truyền thống những khái niệm theo tinh thần Phật giáo đại thừa hoặc Phật giáo nguyên thủy. Tác giả cho rằng: "Chúng ta hành động vì bản ngã nhiều hơn các loài khác. Bản ngã chúng ta lớn hơn vì chúng ta quá thông minh. Bởi vậy chúng ta thổi phồng bản ngã lên và trở nên tồi tệ hơn cả loài vật". Ðó là một trong những điểm đầu tiên để mọi người tự kiểm soát mình và những hành động của mình nhằm hướng nội - bắt đầu cho một hành trình tâm linh.
 MAI AN - LAM ĐIỀN


HÃY XUỐNG THẤP TRONG QUAN NIỆM
ÐỂ LÊN CAO VỚI HÀNH VI     

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn .
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học ,
Phước trí vô cùng thệ nguyện tu .
Như lai vô số thệ phụng sự ,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành .
VIÊN NGỌC NHƯ Ý CỦA
SỰ HỒI HƯỚNG
( Lời truyền khẩu của Padmasambhava , Tsogyal ghi chép và cất dấu .)
Trích những lời khai thị của đức Liên Hoa Sanh
Trên con đường Ðại Toàn Thiện

Phương pháp hồi hướng thượng căn nhiều vô số ,
Bất cứ công đức nào con đã tích lũy ,
Sẽ tích lũy , hay công đức con đang hoan hỷ .
Hãy hồi hướng về Vô Thượng Vô Biên .
NAMO GURU DEVA DAKINI HUM .
Con kính lễ ,
Bậc đạo sư , Chư Phật Ðà , Bổn Tôn , Dakas , Dakini .
Lành thay , hoan hỷ thay ! .
Quyết định Hồi Hướng các thiện căn ,
tạo ra nhiều lợi lạc của một người hướng về
Trạng thái Giác Ngộ Vô Thượng Vô Biên .
Nhưng để cho điều này được hoàn thành ,
Ðiều quan trọng vẫn nằm trong ba yếu tố :
- Công đức được hồi hướng .
- Người nhận .
- Và ý tưởng hồi hướng .
Ðối với người thực hành Mật Thừa ,
Vị thầy được xem là ruộng Công Ðức Thanh Tịnh .
Là người được nghĩ tưởng trước tiên ,
Vì vị Thầy là người chỉ rỏ cái gì là Phật tánh .
Dẫn dắt ta vào Ðạo Lộ Quang Vinh .
Thế nên , lúc bắt đầu của bất kỳ dâng cúng nào ,
Hãy để qua một bên mọi sự dâng cúng khác.
Ðể khởi đầu dâng cúng đến Thầy con .
Bởi vì làm vui lòng ngài ,
Con sẽ đạt đến sự thành tựu ;
Trạng thái cao cả nhất của Toàn Giác.

Tăng già , được xem là Phước Ðiền Thanh Tịnh ,
Là kho tàng của mọi giáo lý con theo .
Là người mở toan cánh cửa ,
Ðưa con vào Trí Huệ bao la .
Nhữnh vị vốn là Thành viên của Tăng đoàn ,
Là đại diện cho Tăng già Thanh Tịnh .
Ðược hưỡng theo những sự cúng dường của cả Nhân - Thiên ,
Thế nên con phải chân thành dâng cúng .
Trong ý nghĩa tổng quát ,
Tam bảo được xem là Phước Ðiền Thanh Tịnh .
Vì thế khi con hướng về Tam Bảo ,
Là hướng về sự thanh tịnh tuyệt đối của Tánh Không .

Không có bậc thầy nào - như Phật ,
Không có sự bảo hộ nào - như Pháp .
Không có ruộng phước nào - như Tăng ,
Như thế con cần sự dâng cúng cho Tam Bảo .

Lúc con theo các Thừa thấp ,
Cánh đồng cao quý là Vô Thượng .
Như khi gieo giống trong cánh đồng tuyệt hảo ,
Cẩn thận nuôi dưỡng chúng bằng : phân bón , vun , xới .Bấy giờ hoa quả , ngủ cốc sẽ dồi dào tươi tốt ,
Giống như thế -
Quả sẽ được nhân lên nhiều lần ,
Nếu cách đồng Phước Ðức được Thanh Tịnh .

Khi con theo các thừa cao ,
Nhìn những người nhận ở địa vị thấp kém .
Nâng đỡ những người tàn tật , bị khước từ ,
Không thân nhân bè bạn ,
Những người tuyệt vọng cô đơn .
Bệnh hoạn và tàn tật ,
Người già ốm yếu, giác quan hư hỏng .
Người nghèo khó đói cơm –
Và hành khất lê thân tàn dò dẩm lang thang .
Là Bồ tát con cần nâng đỡ ,
Những con người không một kẻ chở che .
Như thế đó chư Phật thường dạy bảo ,
Con cũng cần như thế để làm theo .

Với những người thọ nhận là Thanh Tịnh ,
Cho dù là thấp hoặc cao .
Ðồ vật mà con dâng cúng - có thực ,
Hay được tạo ra từ tâm thức .
Do người nhận ở địa vị cao hơn ,
Với mây đồ cúng không gì sánh của đức Phổ Hiền .
Có thực và do Tâm biến hoá ,
Bao la và tràn đầy không gian Thanh Tịnh .
Con dâng cúng ngài. Với cả Ðại Dương dâng cúng ,
Bên ngoài , bên trong, bí mật và như như .

Khi bố thí những món dùng cần thiết ,
Chúng không bị tà hạnh và tà mạng nhiễm ô .
Hãy cho những người nhận là bậc thấp ,
Bằng sự cúng dường bốn thứ .
Phẩm vật không phải của thường trụ ,
Hay của từ trộm cướp .
Và không hại cho bất cứ lãnh vực nào ,
Mà phải là thứ quí giá , vui thích và tốt nhất .
Ðó là thứ mà con cần dùng đến ,
Ðể giúp đở người tàn tật đói nghèo .
Với bốn loại cúng dường ,
Thực phẩm dự trữ , thứ đẹp nhất .
Những không phải là những vật ,
Có lẫn tà hạnh hay vũ khí .
Cũng không phải từ vật thực bị ô nhiễm ,
Bởi kiếm được từ phẫm tính bất tịnh .

Tự thúc đẩy con theo lối này ,
Với thái độ Thanh Tịnh trong Phước Ðiền Thanh Tịnh .
Làm phát sinh lòng kính yin vào các người trên ,
Và lòng Bi cho các người ở dưới .
Như thế là sáng danh Tam Bảo ,
Hiện diện trong Tâm Thức Giác Ngộ hoàn thành .

Thúc đẩy bằng niềm tin và lòng thương xót ,
Cúng dường người –
Trong trạng thái thức ngộ Tánh không .
Hướng dẫn bởi Hồi Hướng và Thệ Nguyện ,
Và niệm bằng cách không ý niệm hoá ba luân .

Là ý niệm không ý niệm về ,
Chủ thể , đối tượng và hành động .
Hay ý niệm không ý niệm về ,
Người cho kẻ nhận và vật cho .

Khi có một thái độ Thanh Tịnh ,
Ðối với mọi vật Thanh Tịnh .
Hãy cúng dường vật tốt nhất ,
Và hồi hướng chúng về trạng thái của  -
Thừa Vô Thượng Vô Biên .
Ðóng dấu ấn bằng cách không ý niệm hoá ba luân ,
Sự Hồi Hướng  này sẽ được xem là siêu tuyệt nhất .

Sự tích lũy công đức ,
Ðược tạo ra như thế nào với đối tượng liên quan .
Phẩm vật và thái độ hồi hướng ,
Những công đức này, được hồi hướng cái gì .
Và chúng được hồi hướng –
Cho nguyên nhân và cứu cánh nào .

Ðức Phật dạy:
“ Bồ tát, hồi hướng công đức hay thiện căn ,
Về trạng thái Toàn Giác Viên Mãn .
Không phải về ,
Trạng thái Thanh Văn , Bích Chi Phật ” .
Như thế con hồi hướng ,
Ðến nguyên nhân cho sự đắc quả Toàn Giác .
Trạng thái Phật Tánh biết tất cả ,
Như cách thức mà các đạo sư đã từng hồi hướng .
Như cách thức các bậc Ðại Thành Tựu đã từng hồi hướng ,
Trong quá khứ , Trong hiện tại , Kể cả vị lai .
“ Những vị thấu rõ trạng thái bản nhiên của cái thấy ,
Là đệ tử trong Ðại Ðịnh sở hữu Tâm Giác và Ðại Bi .
Án chứng các dấu hiệu của mọi siêu xuất ,
Những Thiện tri thức cao cả như vậy .
Là những bậc thầy siêu việt ,
Ðể cho con hồi hướng công đức tựu thành ” .

Tốt nhất  con cần gặp một vị Thầy như thế ,
Còn không thể -
Thì có thể theo lời dạy bảo sau đây :
“ Với người nào có đức tin và quyết tâm tối thượng .
Phật sẽ hiện tiền như thể một người thân ,
Và vào đúng thời gian .
Trăng non , trăng tròn và ngày mùng 8 ,
Hãy hồi hướng thiện căn .
Trong sự hiện diện của Tam Bảo vẹn toàn ,
Hoặc hồi hướng trước điện thờ Tam Bảo ” .

Tiếp theo ,
Sự hồi hướng sẽ được làm cho ai đó ,
Con chớ nên hồi hướng -
Cho nhất định chỉ có một người .
Mà phải toàn tất cả chúng sanh ,
Mà đầu hết là cho một người đại loại .
Tên của người mà sự hồi hướng được làm cho ,
Dù trực tiếp hay là trong gián tiếp .
Chỉ làm vì lợi ích của chúng sanh ,
Chỉ làm cho tất cả chúng hữu tình .
Bằng công đức tận cùng con có được,
Ðưa họ về Giác Ngộ Quang Vinh .

Với một người hiện còn đang tại thế ,
Ðơn giản là con chỉ dùng tên .
Với người chết con chỉ dùng đại loại ,Khi hồi hướng cho tất cả chúng sanh .
Mà đầu hết là một người cụ thể ,
Hướng về người đó nói rõ rằng :
 Hãy giữ thân tâm bạn thành kính ,
Chấp hai tay quán tưởng trong bầu trời trước mặt .
Vị thầy chính của bạn đang ngồi ,
Bậc điều ngự siêu việt .
Bậc chiến thắng hoàn toàn tuyệt đối ,
Ðức Thích Ca Mâu Ni Trang nghiêm - Thanh tịnh .
Ðược trang hoàng bằng ,
Các Tướng chính và phụ tuyệt hảo vô song .
Chung quan Ngài các T ùy tùng , Thị giả ,
Tất cả chư Phật , Bồ tát của mười phương .
Và tất cả các : Guru , Yidam , Dakini và Hộ pháp ,
Hãy cúng dường thân bạn .
Sự thịnh vượng - Quyền lực - Vinh quang ,
Và trên hết là tất cả các thiện căn .
Ðược tích luỹ từ muôn đời, muôn kiếp ,
Hãy cúng dường cả tấm lòng trong ý nghĩ .
Lòng ngập tràn Hỉ Lạc Tánh Không ,
“ Mong rằng tất cả mọi chúng sanh .
mà đầu hết là những người đại loại ” ,
Được đạt đến giác ngộ .
Tối thượng chân thật và viên mãn ,
Con hồi hướng mọi thiện căn .
Có từ Công Ðức, Trí huệ đã tích luỹ,
Và tất cả các thức có được từ vô thuỷ tử sanh ” .
( Với một lòng tôn kính hãy lập lại các hồi hướng nhiều lần )

Nếu hồi hướng được làm cho người khác ,
Hãy thay vì chữ “ Bạn” bằng “Con” .
Nếu có thêm chúng tăng bốn vị ,
Hãy thỉnh cầu -
Các vị thêm vào , thệ nguyện của riêng mình .
Vị thầy phải tập trung vào quyết định ,
Không động chao bởi lời nói và ý nghĩa đang làm .

“ Chư Phật và Bồ tát trụ khắp mười phương ba thời ,
Xin rủ lòng từ bi gia hộ ” .
Các vị Guru và Hoá Thần Mandala Bổn Tôn ,
Xin vì lòng từ mà chiếu cố .
Các thiện căn được tạo ra từ vô thuỷ tử sanh ,
Từ Bố Thí , Trì Giới , Nhẫn nhục , Thiền định .Mà Thiện nam tử , Thiện nữ nhân kia đã tạo ,
Và bảo cho người khác tạo .
Với các thiện căn từ Phước Ðức và Trí huệ ,
Do Thân , Khẩu , Ý của đời này và đời sau .
Cũng như các thánh nhân đã thành tựu ,
Trong thần lực chân lý đã làm .
Con trọn vẹn hồi hướng chúng như là ,
Nguyên nhân cho Giác Ngộ Vô Thượng .
Chân thật và Viên Mãn ,
Ðến Thiện nam tử , Thiện nữ nhân -
Cũng như cho tất cả chúng sanh ” .
Nếu như sự chứng ngộ -
Của người được hồi hướng cao hơn .
Hay đó lại chính là một Ðạo sư toàn vẹn ,
Hãy thỉnh cầu sự chứng giám .
Ðổi cứu cánh của hồi hướng và nguyện vọng ,
Cho sự lợi lạc của tất cả chúng sanh .

“ Mong rằng mọi chúng sanh, trước hết là ,nhanh chóng đạt đến trạng thái quí giá .
Của Giác Ngộ Tối Thượng và Viên mãn ”( 3 lần ) .

“ Cho đến khi hoàn thành mục tiêu của nguyện vọng ,
Trải qua mọi đời và cả kiếp tái sanh .
Mong rằng tất cả chúng sanh ,
Đạt được mức độ nhân Thiên trong cõi không sầu .
Không đứt đoạn bởi một tái sinh nào khác ,
Mong rằng họ -
Có được mọi phẩm tính tốt của một tái sinh cao cấp .
Gồm tất cả tính cách cao thượng nhất ,
Mong rằng họ gặp được thiện trí thức truyền thừa .
Dòng phái của các bậc thầy cao cả ,
Và được họ chấp nhận làm đệ tử -
Trên con đường Ðạo Lộ Quang Vinh ” .
( Hoàn thành ba lối đi đẹp lòng ,
Của sự thực hành cá nhân .
- Phụng sự trong tư tưởng ,
- Lời nói và hành vi -
- Cung cấp vật chất ) .

 Mong rằng họ hưởng thụ sự thịnh vượng ,
Các giáo lý không gì sánh -
Của tối Thượng Thừa qua Văn-Tư-Tu .
Qua sự có được chổ ở tốt ,
Đồng bạn và đồng bạn tốt đẹp .
Mong rằng họ rộng chuyển bánh xe Pháp sâu xa ,
Và Thanh Tịnh của Thừa Vô Thượng ” .

Qua hoạt động Bi mẫn vô lượng ,
Cùng với từ ái vô biên của Tâm Giác Ngộ .
Mong rằng họ thành tựu lợi lạc cho hữu tình ,
Một cách không cố gắng và tự nhiên .
Và giáo hoá mỗi người ,
Theo con đường nào thích hợp .

Du hành trong đại dương ,
Trùm khắp các cõi Phật vô biên .
Gồm những Mandala của các Guru , Yidam và Dakini ,
Mong vào họ đi vào trong tạng của mọi tích lũy .
Mong rằng họ đi theo bước chân của các Ngài ,
Mong rằng họ đồng đẳng với Chư Phật .
Trong sự Chứng Ngộ , Ðại bi , Công đức .
Và Hoạt Ðộng Tính Không .

Trên con đường thực hiện điều này ,
Mong rằng mọi yếu tố xấu xa và đối nghịch .
Như : Khó khăn, chướng ngại, phóng dật ,
Lười biến, tà hạnh, và lỗi lầm đều lặng mất .
Mong rằng họ có được -
Những hoàn cảnh tuyệt hảo và dồi dào .
Các phẩm tính : an vui , hạnh phúc , sống lâu ,
Sức khoẻ , hảo tướng , niềm tin sâu xa .
Trí óc nhạy bén, Ðại bi, sinh lực, Thịnh vượng ,
Bố thì và hoan hỉ .Mong rằng các thệ nguyện Samaya được thanh tịnh ,
Trong giới luật hoàn hảo ” .
( Nếu sự hồi hướng và nguyện vọng được làm cho người quá cố ,
Ðến lúc này, hãy cữ hành nghi lễ tịnh trừ chướng ám ) .

Nếu được dành cho một người sống ,
Thì nói một nguyện vọng nào khác hơn là -
 Mong rằng - Mọi bệnh tật và ảnh hưởng xấu .
Ác hạnh và che chướng , vi phạm lỗi lầm và bất hạnh ,
Các chướng ngại bên ngoài và bên trong -
Mọi năng lực xấu và bất hòa đều thanh tịnh ” .

Mong rằng họ an trụ trong Pháp ,
Với Tư Tưởng lời nói và hành vi .
Và khi được han thưởng những lời nói không tỳ vết ,
Của các Bậc Ðiều Ngự .
Mong rằng mọi ước nguyện của họ được viên thành ,
Như họ có được trong tay ngọc Như ý .

Vào lúc chết ,
Mong rằng họ không chịu đựng đau khổ .
Do sinh lực đứt đoạn ,
Mọi trạng thái phiền não đều lắng dịu .
Họ sẽ nhớ lại Guru và Tam Bảo ,
Trong niềm hoan hỉ , an lạc vô biên .

Mong rằng họ hoàn toàn được che chở ,
Bởi Tâm Trí Huệ và Ðại Bi .
Của tất cả các bậc Thánh ,
Các vị là đối tượng tối cao cho sự quy y .

Mong rằng họ hoàn toàn không phải chịu đựng ,
Sự sợ hãi kinh hoàng của thân trung ấm .
Mong rằng  mọi cánh cửa đi vào cảnh giới thấp ,
Ðều đóng lại .

Như là cái tối hậu - mong rằng họ đạt đến ,
Trạng thái quý giá của Giác ngộ vô thượng -
Chân thật và Viên mãn .

Với sự ban phước của ba thân Giác ngộ chư Phật ,
Với sự ban phước, của chân lý bất biến Pháp tánh .
Với sự ban phước, của các Guru, Yidam và Dakini ,
Mong rằng sự hồi hướng của các con được thành tựu .

( Và chấm dứt bằng cách niêm phong -
với sự thanh tịnh ba luân của vô niệm ) .
Công đức vô biên khi niêm ấn ,
Với sự hồi hướng quý giá trong cách này .
Hãy phát lên lời nguyện hoàn hảo ,
Trong sự hiện diện của Tam bảo .
Hoá thân và Thầy con ( hay tương tự  ) ,
Với niềm tin, gom góp các tích luỹ bấy lâu .
Và phát nguyện vọng rộng lớn như thế đó ,
Công đức ấy không thể nghĩ bàn ,
Như một giọt nước gom vào đại dương .
Sẽ không khô mất ,
Cho đến khi nào đại dương khô kiệt .
Cũng như cách ấy ,
Công đức hồi hướng trọn vẹn đến giác ngộ ,
Sẽ không tan biến trước khi đạt đến vô biên .

Ðã gom chứa các tích luỹ công đức và Trí Huệ ,
Các khuyết điểm của không niêm ấn .
Sự hồi hướng quý báu ,
Sẽ rơi vào bốn nguyên nhân của sự khô kiệt .

( Sau khi tạo được một thiện căn ,
Mà không hồi hướng , hay hồi hướng sai lầm .
Mang đi khoe khoang với người khác ,
Hay cảm thấy hối tiếc -
Chính là bốn nguyên nhân của sự khô kiệt ) .

Bởi thế ,
Ðiều cần yếu là hồi hướng theo phương cách .
Quán tưởng những tia sáng rực rỡ ,
Phóng từ trái tim của đức Phật hay Hoá thần .
Chạm đến thân , khẩu và ý ,
Của tất cả chúng sanhthọ nhận sự hồi hướng .
Những tia sáng này ,
Sẽ tẩy sạch hoàn toàn ác nghiệp .
Sự che ám và tất cả tội lỗi của họ ,
Họ sẽ trở thành những khối cầu ánh sáng .
Và chúng tan trở lại vào tim của chư thiện thệ ,
Phật và Thánh chúng tan biến vào hư không nền tảng .
Như ánh cầu vòng tan giữa không gian ,
Rồi ấn niêm như thế -
Bằng cách không ý niệm hoá ba luân .
Như thế !
Thực sự gọi là sự hồi hướng chân thật và tối thượng .

“ Sự hồi hướng phi thường tròn đủ ,
Cái cao trội nhất để cử hành .
Là thái độ tự do ,
Thoát khỏi sự trụ vào danh tướng .
Tức là không có vô minh ,
Hơn nữa, sự hồi hướng vô thượng .
Là hiểu biết thấu triệt rằng:
Không có bản tánh thực -
Trong công đức được tạo ra .
Trong quả của nó, trong người được hồi hướng ,
Hay trong hành động hồi hướng ” .

Cho nên ,
Yãy chôn cất mọi công đứt được tạo ra -
Cho một định hướng đặc biệt ,
Như một kho tàng vô tận .
Và hoàn thành bằng cách ấn niêm ,
Với sự hồi hướng của đại thừa .
Hãy tôn kính ,
Khi tuỳ hỉ niềm vui vô tận .
Với trong lòng đầy rẩy sự biết ơn ,
Ðấy mới chính là con đường được dạy .

Samaya -
Mong mọi sự tốt lành .
SARVA MANGALAM .

Nói một cách căn bản ,
Khi làm một sự hồi hướng.
Chính là thực hành ba điểm tổng quát -
- Sự hồi hướng bảo vệ toàn vẹn món quà ,
Công đức của người trao cho
- Sự hồi hướng sau một thực hành đặc biệt của Mật Thừa ,
Hay sau khi chuyển bánh xe pháp thâm sâu .
- Sự hồi hướng hoàn thành tích lũy công đức ,
Trong hư không nền tảng của Tánh Giác Bổn Nguyên .

Ðiểm thứ nhất xãy ra tất thời ,
Khi phẩm vật được người trao tặng cho con .
Hay sau khi tuỳ hỉ nó ,
Hãy lập lại ba lần lời nguyện  .
( Hay bất cứ lời nguyện nào thích hợp ) .

Ðảnh lễ chư Phật ,
Bồ tát mười phương cả ba thời .
Xin chiếu cố đến con ,
Kẻ phát tâm hồi hướng .
Các đạo sư và tăng chúng thanh tịnh ,
Xin các ngài Từ mẫn gia trì .
Xin các ngài Từ bi gia hộ ,
Như thiện căn này từng biểu lộ .
Như bất cứ công đức nào có được ,
Người trao cho sẽ tạo được suốt ba thời .
Ðược hồi hướng về tất cả thiện duyên ,
Sự rộng rãi vô cùng của không tận quả .
Mong rằng tất cả mọi chúng sanh ,
Sẽ đạt được Giác Ngộ vô thượng ngay hiện kiếp .

Ðiểm thứ hai xãy ra lúc kết thúc ,
Của bất cứ sự nghiên cứu, chỉ dạy .
Và thiện định bên ngoài hay bên trong ,
Hay bất cứ cái nào của mười hoạt động tâm linh .

“ Ðảnh lễ chư Phật và Bồ tát mười phương cả ba thời ,
Các Guru , Yidam , Dakini và Hoá thần Mandala .
Cùng những Hộ pháp của các ngài ,
Xin các ngài Từ mẫn gia trì -
Xin các ngài Từ bi gia hộ .
Trong Mandala bao la của đức Phổ Hiền ,
Mong mọi thiện căn được tạo trong suốt cả ba thời .
Bởi Guru cầm Kim Cang và các vị khác ,
Và bởi vì tất cả Huynh, Muội Kim cang thừa .
Trong công việc chuyển pháp luân rộng lớn ,
Ðược hồi hướng về sự đạt thành Phật tánh toàn mãn .
Mong rằng ai ai ở bất cứ nơi đâu ,
Ðều đạt đến trạng thái Phổ Hiền .
Ðược hồi hướng theo cách này ,
Và ở trong trạng thái chân thật vô thượng của cái tối hậu ” .

Ðiểm thứ ba xãy ra lúc kết thúc ,
Của bất cứ cái gì con muốn hồi hướng .
Và bất cứ lúc nào con hồi hướng -
Hay vào lúc chấm dứt bất cứ hoạt động nào ,
Hãy làm sự hồi hướng trong trạng thái Ðại Ấn .

“ Các bậc Ðiều Ngự và đệ tử trong mười phương ba thời ,
Xin rũ lòng từ mẫn .
Mong rằng bất cứ công đức nào tạo ra .
Bởi tư tưởng, lời nói và hành vi ,
Do chính con hay người khác trong chúng sanh .
Trong quá khứ , hiện tại và vị lai ,
Ðược hồi hướng về cõi giới Vô biên của Giác Ngộ .
Mong rằng quả Vô thượng ,
Của bản tánh không gì sánh được đạt đến ”.

Lúc bắt đầu bất kỳ sự hồi hướng nào ,
Hãy quán Tam Bảo trước mặt .
Như sự chứng giám ,
Hãy quán tưởng -
Các vị chấp nhận con với các lời hồi hướng và nguyện lành .
Sau đó nói lên lời hồi hướng ,
Trong khi ấn niêm bằng vô niệm .
Những gì con đang hồi hướng ,
Và các đối tượng của sự hồi hướng .
Công đức và người tạo ra việc hồi hướng vào lúc cuối ,
An trụ trong trạng thái siêu việt .
Khỏi lời nói và tư tưởng ,
Và diễn đạt trong nó –
Mọi hiện tượng của sanh tử và Niết Bàn .
Vào lúc ban đầu không sanh khởi -
Chặng giửa không ngừng trụ ,
Cuối cùng không diệt mất .

SAMAYA!
ẤN NIÊM

NAMO GURU DEVA DAKINI  HUM.
Các phương tiện thiện xão này,
Ðể đưa thiện căn công đức đến chổ hoàn hảo
Là các lời dạy truyền miệng về hồi hướng
Có tên là :
VIÊN NGỌC NHƯ Ý CỦA SỰ HỒI HƯỚNG
Ðược vị Vidyadhara Padmasambhava  ban cho.
Và tôi, Tsogyal
Viết lại chúng với hình thức nghi chú
Và cất giấu chúng như kho tàng Bí mật Terma
Nguyện rằng chúng gặp người xứng đáng tiền định.

Dấu ấn cất dấu-Dấu ấn trao truyền-Dấu ấn kho tàng.

SAMAYA!
DATHIM

NAMO GURU DEVA DAKINI  HUM.

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Chùm thơ – Nhân duyên

I- Nhân duyên
II- Món ăn và pháp TU
   - Tình thương
III-Lên non Thị Vải
    -Nói chuyện gió trăng.
( Kính dâng cho Mẹ Quê hương)
( Tịnh thất LINH - PHONG – ĐỘNG
   QUẢNG PHƯƠNG TỊNH – XỨ
    NON THỊ VẢI )
IV-Nói chuyện gia đình
V-Muốn qua biển khổ gắng TU

I- Nhân duyên




Không mừng khi người đến
Chẳng buồn lúc kẻ đi
Nếu mừng khi gặp gỡ
Sẽ buồn lúc chia ly

Oán ân, duyên nợ trước
Cho đời mượn, trả, vay
Nay gieo nhân trái ngược
Quả báo nặng sau này

Thiếu duyên kêu không lại
Duyền đầy đuổi chẳng đi
Cao duyên níu không ở
Đến, đi
             Được, mất chi?


         Ngày 24  tháng 10 năm Nhâm thân (1992)

( Tịnh thất LINH - PHONG – ĐỘNG
   QUẢNG PHƯƠNG TỊNH – XỨ
    NON THỊ VẢI )



II- Món ăn và pháp TU
   

MƯỜI PHƯƠNG PHÁP GIỚI


Ăn : chiên, xào, nấu, tươi…nhiều món,
Pháp : Thiền ,Luật, Mật,Tịnh…đồng TU
Tâm không khởi chướng, sao ngại chướng ?
Pháp nào chướng ngại, Pháp nào ru ?

         Ngày 13  tháng 3 năm Quí sửu (1993)

( Tịnh thất LINH - PHONG – ĐỘNG
   QUẢNG PHƯƠNG TỊNH – XỨ
    NON THỊ VẢI )

- Tình thương

Thích TU PHẬT ĐẠO, vui làm phước
TINH TẤN cần TU thoát u-minh
Thương muôn người khổ chưa tu được
Đang đắm chìm trong biển mê tình.

         Ngày 19  tháng 2 năm 1983

Tại thôn Thiện chí, xã Ninh gia
Đức trọng, Lâm đồng


III-Lên non Thị Vải
     Nói chuyện gió trăng.





Bồng lai ai tạo sao đẹp lạ,
Tiên cảnh phô bày nét xinh tươi(1)
Trăng Non Thị Vải thanh lạc quá
Gió động Linh Phong mát ru người

ANH PHONG ra Bắc mang hộ gió?
CHỊ NGUYỆT vào Nam chuyển giùm trăng?
Thằng cuội vểnh tai nghe Quan họ
Bỏ trâu ăn lúa ruộng Chị Hằng(2)

Mùa đông miền Bắc đêm lạnh buốt
Gởi gió Nam về ấm áp hơn,
Gió Lào tháng nực thiêu bỏng rát,
Gian khổ ai bằng lính Trường Sơn?

Gió biển vũng tàu qua Long Hải,
Gió tốt tụ về Động Linh Phong
Tìm TU qui hướng Non Thị Vải
Hỏi ai ĐỒNG HẠNH với CHUNG LÒNG ?

Trăng Chế Lan Viên tình bát ngát,
Hỏi Vũ Thị Thường có ghen không ?(3)
Tiên Ông Lý Bạch say MỘNG NGUYỆT
Đáy nước mò trăng lạc thủy cung(4)


Biển dâu trăng gió bao tròn khuyết,
Lỗi hẹn xót ai đợi mười đông?(5)
Nhớ NGUYỆT Khơ Me sầu ly biệt(6)
Thương TRĂNG Trại-Kế kiếp tang bồng,(7)


Cảm Hàn Mặc Tử, Trăng sầu đỏ,
Chan chứa đầy vơi lệ Mộng Cầm.
Tâm tình thanh thoát cùng Trăng, gió
Ai cản ngăn ai chẳng về thăm?

Gió lạnh Đại Ninh, Trăng Đà Lạt,
GIA LÂM, ĐỨC TRỌNG xứ LÂM ĐỒNG
Giỗ TỔ kỳ này đang “AN-THẤT”
Đệ tử Hương Nghiêm vẫn về đông.(8)

Em Kiều chia Nguyệt soi chàng Thúc,
Mấy ai mãn nguyện kiếp phù sinh?(9)
Ngại chi VỀ ĐÍCH không khó nhọc?
Sao ngán phong ba, sợ thác ghềnh.(10)

Quí ai trang trải tình chân thật,
Năng đến nên gần, vắng hóa xa.
Trọng lòng NHÂN NGHĨA  hơn vật chất,
Muối mặn gừng cay thấy đậm đà.(11)

Gió Trăng đây đó đường bao dặm,
Gần xa thương ghét tại nơi tâm.
Thiếu duyên giáp mặt mà xa thẳm
Duyên đầy muôn dặm tưởng đôi tầm.(12)

Gió dư tạm gửi vào động đá,
Trăng thừa đêm cất để dành trăng?
Đêm rằm hội ngộ đông vui quá,
CHỊ NGUYỆT, HẰNG NGA, với CHỊ HẰNG

Chùa TỔ Tây Ninh miền nắng cháy
Trăng thanh Yên Tử nắng Sài Gòn
Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy,
Chia khắp muôn nơi, nguyệt vẫn tròn(13)

Cầu vồng Yên Thế trai thượng võ,
Nội Duệ Cầu Lim Gái hát hay,(14)
Ai mãi chờ ai, trầu dạm ngõ?
Ai dưt trần duyên hướng trời TÂY?(15)

Gió trăng dong duổi trang hào kiệt,
Đuổi Tống xâm lăng tận Châu Ung(16)
Trăng gió Bình Than, vang lời hịch,
Vung thanh kiếm bạc diệt Nguyên Mông.(17)

Thăm NGUYỆT Thăng Long ơn Vạn Hạnh,
Con cháu Rồng-Tiên thịnh muôn đời. (18)
TUỆ TRUNG thưởng Nguyệt quên gió lạnh,
MA-HA-BÁT-NHÃ hát vang trời.(19)

Trần gian sướng giả, muôn khổ thật,
Giành dật, tranh đua, sướng vui gì ?
Thế gian thật sướng ai làm Phật ?
Cầu TU GIẢI-THOAT để làm chi.

Ngọn gió an nhiên không thể trói
Vầng trăng TỰ TẠI chẳng dễ xiềng.
Nghêu ngao đàm tiếu e tội lỗi,
Gởi gió, chia trăng chuyện bong phèng...

ANH PHONG sảng khoái vui GIẢI-THOÁT,
HĂNG NGA mơ mộng luyến trần gian?
CHỊ HẰNG, CHỊ NGUYỆT về CỰC LẠC,
Thấy PHẬT DI ĐÀ cảnh NIẾT BÀN

        Ngày 12  tháng 11 năm Giáp Tuất (1994)
Tỳ kheo Thích Quảng Định cảm tác
( Tịnh thất LINH - PHONG – ĐỘNG
   QUẢNG PHƯƠNG TỊNH – XỨ
    NON THỊ VẢI )

Chú thích:

(1)- "Bồng lai ai tạo sao đẹp lạ,
Tiên cảnh phô bày nét xinh tươi"
Lấy ý trong bài “Tịnh thất Non Thị Vải,”khi nói về ứng tích của khu địa linh này có đoạn:
“Gươm lực ngựa voi… công lực mạnh,
Bút, nghiên cờ bảng… phát văn tài,
Tả non ÔNG TRỊNH dàn Tiên Cảnh,
Hữu ngọn ĐẠI BÀNG hiện Bồng Lai”.
(2) - Thằng cuội vểnh tai nghe Quan họ
Bỏ trâu ăn lúa ruộng Chị Hằng(2)
Ngày xưa hát ru em thường hát những câu rất mộc mạc, hồn nhiên như đến mức ngẩn ngơ, khờ khạo
“Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Cha mày đóng cửa trên trời,
Mẹ mày đóng cử đi mời quan viên”
Hoặc câu:
Con kiến mày kiện củ khoai
Mày chê tao khó, lấy ai cho giàu?”
Hoặc câu:
“Thằng bờm có cái quạt mo”v.v..
(3)- trong tập thơ Tình yêu xuất bản (ở Hà Nội năm 1963) có bài thơ trăng của Thi sỹ Chế Lan Viên:
Giữa hai cây lại đôi mắt em nhìn,
Anh đến suối, mặt em cười dưới suối,
Lòng anh chạy cho lòng em theo đuổi,
Đêm ái tình đâu cũng mặt trăng em.
(4) Tiên Ông Lý Bạch say MỘNG NGUYỆT
Đáy nước mò trăng lạc thủy cung(4)
Lấy ý câu thơ của Chế Lan Viên:
“Tề thiên đại thánh náo thiên cung,
Lý Bạch ôm trăng chết giữa dòng”

(5)- "Biển dâu trăng gió bao tròn khuyết,
Lỗi hẹn xót ai đợi mười "
Lấy ý mấy câu trong bài “Cô bạn láng giềng”
“Quên sao được lời cuối cùng em nói”
Phút chia tay trong buổi tối hôm rằm!
Dù chin hạ, mười đông em cũng đợi!
Chiến trường xa ai ngỡ vắng bặt tăm”…
Đoạn thơ trên lấy ý trong ca dao:
“Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên chồng, vợ ngàn năm cũng chờ”
(6)- "Nhớ NGUYỆT Khơ Me sầu ly biệt"
Là nói thời gian năm 1970 ở chiến trường Cam-pu-chia, có người bạn là tiểu đoàn trưởng bộ đội giải phóng quân Khơ Me, có cô con gái tên là Chơ-Ba-lơ rất thích ngồi gần nói chuyện than  với giải phóng quân Việt Nam – và có cảm tình đặc biệt vơi người chiến binh xưa ấy. Chơ-Ba-lơ thường nói câu “ bao giờ hết chiến tranh anh cho Chơ-Ba-lơ về thăm Hà Nội, nghe anh” và muốn nâng tình cảm lên mức cao hơn, khi nói câu: “Boong o-ná!”(anh đẹp lắm) và câu: “Ôn xà-lanh boòng ná”(em thương anh lắm) và người chiến binh khi ấy nói rằng: - Anh chỉ muốn coi Chơ-Ba-lơ như “ôn-sơ-rây” (em gái )“ôn-sơ-rây boòng” (em gái của anh)…
(7) "Thương TRĂNG Trại-Kế kiếp tang bồng,"
Là nói thời gian năm Bính Dần (1986) khi phải năm 5 tháng trong Trại giam Kế của tỉnh Hà Bắc nổi tiếng về giam nhốt : “Nhất Kim Thi, Nhì Trại Kế”Cảm thương Người Dệ tử trung kiên của PHẬT, nên HẰNG NGA đã chịu thương chịu khó len lỏi qua lỗ thủng của cánh cửa Nhà Giam đến thăm, đang thời THIỀN-QUÁN:
                                       “Luồn qua khe cửa hằng nga đến
                                         Đem cúng dường ta; môt ánh trăng
     Đang thời THIỀN-DUYỆT không trò chuyện
     Diện bích cùng ta nhé CHỊ HẰNG”
( Trăng đến II-Trại Kế Hà Bắc – 1986)
(8) - "Giỗ TỔ kỳ này đang “AN-THẤT
Đệ tử Hương Nghiêm vẫn về đông."
Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM nguyên là Giáo sư giảng day tại trường cao đẳng PHẬT HỌC Huệ nghiêm. Năm 1963 vì muốn để công phu trong việc tu trì các pháp về MẬT TÔNG, THIỀN TÔNG VÀ TỊNH ĐỘ TÔNG kết hợp được thành tựu. Cho nên, Ngài đã giao việc giảng dạy lại cho chư TÔN ĐỨC khác, để lên vùng cao nguyên thuộc thôn Phú An, xã Ninh Gia, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng cất chùa HƯƠNG-NGHIÊM. Nơi đây là TỔ-ĐÌNH cho hơn bốn chục ngôi chùa, am, thất trong khu vực nương về TU-HỌC. Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm là vị SƠ-TỔ khai sơn của chùa Hương Nghiêm. Ngài Sinh năm ất sửu(1925), Viên tịch năm nhâm thân(1992) vào ngày 20 tháng 11. Từ đó về sau lấy ngày 20/11 làm ngày giổ TỔ.

(9)- "Em Kiều chia Nguyệt soi chàng Thúc,
Mấy ai mãn nguyện kiếp phù sinh?"
Trong truyện kiều khi mô tả Thúy Kiều tiễn biệt Thúc Sinh đêm trăng Nguyễn Du Viết:
“ Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường”
(10) - “Ngại chi VỀ ĐÍCH không khó nhọc?
Sao ngán phong ba, sợ thác ghềnh.
Lấy ý trong BẢO- VƯƠNG TAM-MUỘI Phẩm MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM:
1-Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không tật bệnh, vì không tật bệnh thì tham dục sẽ sinh.
2-Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu sa nổi dậy.
3-Cứu xét tâm tính đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học dễ vượt bậc.
4- Sự nghiệp đừng cầu không chông gai, vì không bị chông gai thì chí nguyện không kiên cường.
5- Làm việc đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng thị- thường kiêu ngạo.
6-giao tiếp đừng mong lợi mình, lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7- với người đừng mong thuận chiều mình, vì thuận chiều  ý mình thì tất sinh tự kiêu.
8- Thi ân đừng cầu có đáp trả, vì cầu đáp trả là thi ân có mưu tính.
9-Thấy lợi đừng nhúng tay, vì nhúng tay thì hắc ám tâm trí.
10-Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát. Mà trả thù thì oán đối kéo dài.
“Bởi vậy PHẬT đã thiết lập CHÍNH PHÁP lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai góc làm GIẢI THOÁT, lấy bạn tteej bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên trong chướng ngại mà vượt qua tất cả. Đức THẾ TÔN được giác ngộ chính trong mọi sự chứng ngại.!
Ương quật hành hung, Đề bà quấy phá, mà PHẬT-ĐÀ giáo hóa cho thành đạo tất cả. Như vậy há không phải tác nghịch là tác thành, và sự quấy phá là sự giúp đỡ cho ta?
Ngày nay những người học Đạo không dấn mình vào sự trở ngại, nên khi trở ngại ập đến thì không thể nào đói phó được, CHÍNH-PHÁP TỐI –THƯỢNG vì vậy mà mất cả, đáng tiếc, đáng hận biết bao?
(11) - “Trọng lòng NHÂN NGHĨA  hơn vật chất,
Muối mặn gừng cay thấy đậm đà.
Lấy ý mấy câu trong bài thơ ĐẠO HẠNH THANH CAO:
“Ân trọng đón từng cọng rau, hạt muối,
Cũng dưng dưng trước tiền, của giàu sang,
Gừng cay, muối mặn sâu tình nghĩa,
Tiền bạc, đổi trao lắm phũ phàng.”
Đoạn thơ trên lại lấy ý trong câu ca dao;
“Ai ơi chua ngọt đã từng,
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau.”
(12) -“Thiếu duyên giáp mặt mà xa thẳm
Duyên đầy muôn dặm tưởng đôi tầm.
Có câu thơ cổ nói:
“ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng”
Trong ĐẠI THỪA KIM CƯƠNG KINH LUẬN có đoạn:
“ Văn Thù Bồ Tát hỏi PHẬT: hoặc có người nam hay nữ gần thầy nghe pháp thường thường mà nửa tin nửa không, dường như qui y mà chẳng y theo, cái than tuy lạy PHẬT, mà lòng nghi hoặc đã nhiều, cái tâm mình chẳng ngộ, trở lại trách thầy chẳng chịu chỉ dạy, những người như vậy làm thế nào mà hóa độ?”
ĐỨC PHẬT nói: đây là những người ít phước, trí tuệ cũng không, nên không biết phép vô vi, chấp tướng, tà kiến, kiêu mạn, che lấp trong tâm chẳng được chính kiến.
Cớ sao vậy? Nếu như người TU-HÀNH thì phải biết trọng thầy thì mới trong PHÁP, còn nếu người TU-HÀNH khinh rẻ thầy, thì trong làng cũng khinh pháp.
            Hễ trọng thầy trọng pháp thì học mới được, còn khinh thầy thì pháp không học. Nếu như khinh rẻ thầy là: Tăng thượng mạn. Tuy đồng đi với thầy mà lòng cách xa như muôn ngàn dặm, đến khi mạng chung vào A-Tỳ địa ngục, ngàn muôn PHẬT ra đời cứu độ không được, hễ mất than người muôn kiếp khó trở lại được.
(13) - “Trăng rằm tỏa sang bao miền ấy,
Chia khắp muôn nơi, nguyệt vẫn tròn
Hai câu trên lấy ý trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN phẩm NGUYỆT DỤ ĐỨC PHẬT giảng cho các vị ĐẠI BỒ-TÁT có đoạn: “ PHẬT bảo CA DIẾP BỒ TÁT “ ví như có người thấy mặt trăng lặn, cho rằng mặt trăng đã mất, nhưng thật ra mặt trăng không mất, đang hiện ra ở phương khác. Chúng sinh ở xứ kia lại nói là mặt trăng mọc, nhưng thực ra mặt trăng không có mọc, vì bị che chướng không thấy, nên cho rằng mặt trăng có mọc có lặn, nhưng thực ra mặt trăng không mọc không lặn.
Cũng vậy; ĐỨC NHƯ LAI CHÍNH BIẾN TRI hiện ra nơi Đại Thiên Thế Giới, hoặc sinh tại Diêm Phù Đề, hoặc thị hiện NIẾT BÀN. Nhưng thật ra NHƯ LAI tính không sinh không diệt. vì giáo hóa chúng sinh nên thị hiện sinh diệt.
Này thiện nam tử; như xứ này thấy mặt trăng tròn, phương khác thấy mặt trăng khuyết. phương này thấy mặt trăng khuyết, phương khác thấy mặt trăng tròn. Người Diêm Phù Đề nếu thấy bắt đầu có trăng nói là mồng một, tưởng là đầu tháng. Lúc thấy trăng tròn tưởng là ngày rằm. Nhưng thực ra mặt trăng không có khuyết với tròn, vì bị che chướng mà có them bớt.”(Xem kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN phẩm NGUYỆT DỤ)
(14) - “Cầu vồng Yên Thế trai thượng võ,
Nội Duệ Cầu Lim Gái hát hay,
Là phát triển thành ngữ cũng là câu Phương Ngôn:”Trai Cầu vồng Yên Thế” của vùng Bắc Giang thuộc miền trung du Bắc Bộ và thành ngữ, phương ngôn; “Gái Nội Duệ Cầu lim” Của Bắc Ninh thuộc miền đồng bằng Bắc Bộ. Cả hai địa danh trên thuộc trấn Kinh Bắc ngày xưa ( theo sử sách thời Lý, Trần) nay thuộc tỉnh Hà Bắc. Nếu chỉ nghe đọc nguyên văn thành ngữ: ”Trai Cầu vồng Yên Thế” thì những ai chưa đến địa phương này, chưa biết con trai của xã cầu vồng thuộc huyện Yên Thế, quê hương của người Anh Hùng Đề Thám, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Thực Dân Pháp đầu thế kỷ 20.
Nếu đọc cả hai câu cùng lúc, sẽ có một cặp câu đối nói về các cặp trai tài gái đảm, nói về cái hay, vẻ đẹp của mọi miền xứ sở trên đất nước Việt.
(15) - “Ai mãi chờ ai, trầu dạm ngõ?
Ai dưt trần duyên hướng trời TÂY?
Là nói về  “Cô bạn láng giềng” mỏi mòn chờ đợi mười năm chinh chiến
“Quên sao được lời cuối cùng em nói”
Phút chia tay trong buổi tối hôm rằm!
Dù chin hạ, mười đông em cũng đợi!
Chiến trường xa ai ngỡ vắng bặt tăm”…
“Ai dứt trần duyên hướng TRỜI TÂY”
Là nói về kẻ bần tăng này từ khi ngộ ra lý TU GIẢI-THOÁT, quyết dứt mọi nghiệp duyên, nhứt là ác nghiệp, cho nên trong bài đoạn tuyệt viết:
“ Sáu nẻo trôi lăn mãi ở đây,
Bể nhớ song thương lệ vơi đầy…
Thôi!
        Muôn nghiệp cũ nay ĐOẠN TUYỆT
Băng vạn trùng mây đến TRỜI TÂY”
( Đoạn Tuyệt 1980)

(16)- “Gió trăng dong duổi trang hào kiệt,
Đuổi Tống xâm lăng tận Châu Ung
Nói  về hình ảnh oai hùng  của vị tướng tài LÝ THƯỜNG KIỆT, khi biết vua quan nhà TỐNG có mưu đồ xâm lược thôn tính nước Đại Việt, đang tập trung binh lực ở Châu Khâm, Ung châu trên đất Quảng Đông Quảng Tây, chờ ngày xuất binh…
Được sự phó thác của triều đình đặc biệt là sự tin dùng của vương phi Ỷ Lan( Sau này được phong Hoàng Thái Hậu) người anh hung họ Lý đã chớp thời cơ hành quân thần tốc dẹp tan binh lực cùng ý đồ xâm lăng của nhà Tống, trước khi chúng xuát quân.
(17) - “Trăng gió Bình Than, vang lời hịch,
Vung thanh kiếm bạc diệt Nguyên Mông.
Nói về khí phách oai phong lẫm liệt của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn người anh hung mưu lược văn võ song toàn, đắc nhân tâm trọng dụng nhân tài. Biết vận dụng sức mạnh đoàn kết của toàn dân một cách tài tình, mở hội nghị Bình Than để trưng cầu ý dân( Phát động chiến tranh nhân dân làm vườn không nhà troongsv.v.. ) thảo Hịch tướng sỹ hun đúc tinh thần “sát thát”( giết giặc Nguyên) giành độc lập cho Đất nước.
(18) - “Thăm NGUYỆT Thăng Long ơn Vạn Hạnh,
Con cháu Rồng-Tiên thịnh muôn đời.
 Là nói về Quốc sư Vạn Hạnh có công rất lớn trong sự nghiệp làm cho vương triều Lý trở nên cực thịnh trong những trang sử vẻ vang của Đất Việt, truyền nối được 8 đời vua và với thời gian là 215 năm.
Quốc sư có sáng kiến dời đô từ Hoa Lư(Ninh Bình) về Đông Đô (Hà Nội) tương truyền:
            “ Vua Lý Thái Tổ Người làng Cổ Pháp ( nay đổi là làng Đình Bảng) lúc nhỏ xuất gia TU học với Van Hạnh Thiền Sư ở chùa Lục Tổ Làng Cổ Pháp ( Nơi đây cũng chính là quê hương của Bần tăng này. Không biết có ân hưởng chút phước dư nào về khu Linh địa Cổ Pháp ( Địa linh sinh Nhân Kiệt đã sinh ra 8 Đại Hiền Vương, đồng thời cũng là nơi Vạn Hạnh Thiền Sư đã từng lưu trụ hay chăng?)
            Từ đó đến nay triều đại nào cũng có các bậc đại thần trung quân ái quốc. Như thời gian hiện tại có trung tướng Lê Quang Đạo (tên thật là Nguễn Đức Nguyên)
            Nói tiếp việc phát khởi của triều Lý- Lý Công Uẩn lên Ngôi lấy hiệu là Lý Thái Tổ suy tôn Vạn Hạnh Thiền Sư làm Quốc Sư.
            Quốc sư có cái nhìn THANH TỊNH NGŨ NHÃN của bậc quán thông tam thế vua Lý Nhân Tôn có bài kệ truy tán THIỀN SƯ như sau:
“ Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky(cơ)
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích chốn vương kỳ”
Dịch:
“ Vạn Hạnh thông ba cõi
Lời Sư nghiệm Sấn thi
Từ làng quê Cổ Pháp
Chống gậy chốn kinh kỳ”
Quốc sư có cái nhìn của bậc
“ Thượng thông thiên văn
Hạ triệt địa lý”
( Có người nói Quốc Sư Vạn Hạnh là Hóa thân của một vị Cổ Phật, ứng thế để hóa độ chúng sinh đất Việt này, và đặc biệt đem Phật Pháp truyền dạy cho dân chúng đều thọ trì giới pháp của PHẬT từ tam qui ngũ giới, cho đến xuất gia Tu Hành.
(19) - “TUỆ TRUNG thưởng Nguyệt quên gió lạnh,
            MA-HA-BÁT-NHÃ hát vang trời.
Lấy ý trong bài kệ nói về hoa và trăng quyện hòa trong LY BAT-NHÃ siêu thoát của TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ :
« Tạc dạ Nguyệt minh kim dạ Nguyệt
Tân niên Hoa phát cựu niên Hoa
Hoặc vấn như hà vi cứu cánh ?
MA-HA-BÁT-NHÃ-TÁT-BÀ-HA ! »
Tạm dịch :
«  Năm cũ Hoa cười Hoa năm mới
Đêm nay Nguyệt sáng Nguyệt đêm qua
Ví hỏi : Rồi sao là cứu cánh ?
MA-HA-BÁT-NHÃ-TÁT-BÀ-HA ! »
                        *
                 *            *
Bài thơ này được dung hợp bốn cách điệu :
BI-HÙNG-HÀI-TIẾU một cách hài hòa :
-          BI : Muôn cảm thương rơi lệ
-          HÙNG : Muốn tung giáo vung gươm
-          Hài: Muốn nhảy tưng, giỡn múa
-          TIẾU: Muốn hát lớn cười vang

1- Những câu thể hiện lòng BI(Xót thương)
“ Biển dâu trăng gió bao tròn khuyết,
Lỗi hẹn xót ai đợi mười đông?”
Hoặc câu
“Nhớ NGUYỆT Khơ Me sầu ly biệt
Thương TRĂNG Trại-Kế kiếp tang bồng,”
Hoặc câu
“Cảm Hàn Mặc Tử trăng sầu đỏ
Chan chứa đầy vơi lệ Mộng Cầm.”
2- Những câu mang tính cách HÙNG DŨNG
Ngại chi VỀ ĐÍCH không khó nhọc?
Sao ngán phong ba, sợ thác ghềnh.(10)
Hoặc câu:
Gió trăng dong duổi trang hào kiệt,
Đuổi Tống xâm lăng tận Châu Ung(16)
Hoặc câu:
Trăng gió Bình Than, vang lời hịch,
Vung thanh kiếm bạc diệt Nguyên Mông.(17)
Hoặc câu:
“ANH PHONG sảng khoái vui GIẢI-THOÁT,”
3- Những câu mang tính cách HÀI HƯỚC
Thằng cuội vểnh tai nghe Quan họ
Bỏ trâu ăn lúa ruộng Chị Hằng(2)
Hoặc câu:
Trăng Chế Lan Viên tình bát ngát,
Hỏi Vũ Thị Thường có ghen không ?(3)
Hoặc câu:
Tiên Ông Lý Bạch say MỘNG NGUYỆT
Đáy nước mò trăng lạc thủy cung(4)
4- Những câu mang tính cách LẠC TIẾU
Đêm rằm hội ngộ đông vui quá,
CHỊ NGUYỆT, HẰNG NGA, với CHỊ HẰNG
- Khôi hài lạc tiếu vô cùng khi hình dung THIỀN SƯ TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ :đang say sưa giảng kinh ĐẠI BÁT-NHÃ giong vang vang như Sư Tử rống (hống) giữa mùa đông lạnh giá, có lẽ còn quên cả mặc áo bông
 “TUỆ TRUNG thưởng Nguyệt quên gió lạnh,
MA-HA-BÁT-NHÃ hát vang trời.
                                    *
                            *            *
Trong bài thơ này kẻ Bần-Tăng Non Thị Vải đã thành tâm cung thỉnh ; trên từ CHƯ PHẬT, CHƯ HIỀN THÁNH TĂNG, các bậc trung hiền nghĩa sỹ muôn đời của non sông đất Việt, các thi sỹ văn nhân, chư vị Tiên Thánh, các trai tài gái đảm của mọi miền xứ sở, cho đến cả những « chú cuội ngồi gốc cây đa » cũng kêu về luôn, để cùng hội ngộ đông vui trong « khoảng trời CỰC LẠC » trên Non Thị Vải này. Mỗi người như một cánh chim không mỏi vượt biển khổ sông mê nhắm thẳng đích về bến bờ GIẢI-THOÁT :
« Cho con thỉnh một khung TRỜI CỰC LẠC
CÕI TÂY PHƯƠNG quang giáng thế gian này
Vô lương –Quang ân tỏa sáng tràn đầy
Muôn ân đức sưởi ấm lòng Cùng tử”...
Chung một niềm Bi Nguyện:
“Nguyện chúng sinh phát tâm TU GIẢI-THOÁT
Lạy TỪ PHỤ TÂY PHƯƠNG
                                                Đồng tháp cánh bay về”







IV-Nói chuyện gia đình






Gia đình nhắc đến buồn thay,
Đắng cay, sầu tủi tháng ngày đau thương,
Sống gần cha mẹ quê hương,
Tái tê ngâm khúc đoạn trường phân ly!..
Nhẫn tâm quyền thế đuổi đi,
Phụ bất từ, tử biệt ly xứ người.
Bước đi lòng luống ngậm ngùi,
Không ưng, thuận ý dập vùi phá đi
Tu hành nhẫn nhục TỪ BI,
Nên không tranh chấp làm gì đó thôi!
Nếu như thế sự ở đời,
Con làm cha phá, ai ơi coi chừng!
Không bằng nước lã người dưng
Nồi cơm tôi nấu cũng đừng đập đi !
Phá người TU có hay chi ?
Phúc lành khó tạo đổ đi dễ mà !
Lời xưa con được hơn cha,
Nhân TU ĐẠO-HẠNH thì nhà phúc to. »
Cấm đường tín ngưỡng tự do,
Anh em thương mến không cho quây quần.
Giúp nhau dưỡng chí tu thân,
Ai xui sát vật, thù nhân hại người ?
Chắt chiu khuya sớm lần hồi,
Cô đơn quá kẻ mồ côi bao giờ !
Thân lập thân chẳng được nhờ
Dã không giúp đỡ còn chờ phá tan.
Cậy quyền ỷ thế mắng tràn,
Khi tôi tụng niệm chửi càn chửi xiên.
Gương Thanh đề mẹ Mục-Liên,
Phá tăng đọa quỉ đói miền âm ty.
Phá Tăng báng đạo hay gì,
Hãy TU phước đức từ bi hiền hòa
Trọng nhân, nhân nghĩa đến nhà,
Đuổi nhân, nhân đức đi ra không còn !...
Ai làm cho dạ héo hon ?
Vì đâu phải sống mỏi mòn âu lo ?
Qua sông nên phải lụy đò,
Muốn qua chỗ lội phải dò đường trơn.
Tù nhà nước đỡ khổ hơn,
Ở tù cha mẹ tủi hờn héo hon.(1)
Ghét ghen tranh chấp với con,
Sợ người kính trọng con còn hơn cha!(2)
Ơn trên thử đức đó mà,
Khéo tu phước đức tuổi già vinh than.
Nặng đường ích kỷ hại nhân,
Nhỡn tiền quả báo số phần quạnh hiu.
Kiếp người sống được bao nhiêu,
Sáu mươi tuổi bong xế chiều đang buông…
Cô đơn, sầu tủi, tẻ buồn,
Nhân nào quả nấy theo luôn với mình.
Nhắc chuyện xưa thấy khiếp kinh,
Thanh đề phá Đạo cực hình xót xa!...

Cháu con hơn được ông cha,
Người ta mừng bảo “phúc nhà phát lên”!
Kể công sinh đẻ ỷ quyền
Giận hờn ganh gét bậc trên xứng nào?
Sao cho đức rộng tài cao,
Cháu con nhắc đến tự hào cha ông.
Muốn cho con cháu nối dòng,
Khéo tu phước đức mới mong được nhờ
Ơn trên Phật chẳng tin thờ,
Đáng thương thay sẽ bơ vơ than già,
Cháu con buồn khổ lánh xa,
Của tiền giàu có chắc là sướng đâu?
Có tiền hưu quạnh tẻ sầu,
Không bằng đạm bạc thanh cao quây quần.(3)
Nhiều người tâm đức đạo nhân,
Từ phương xa tới cản ngăn cấm đường…

Hỡi ôi, Cổ-Pháp cố hương!
Nhớ thương đành vậy, tha phương định rồi!(4)
Hỏi vì sao?
                              Đáp một lời:
“Người TU không ở với người phá tu”!
Ái ân sao quá oán thù,
Còn mango an trái bắt tù mãi sao?
Xổ lồng, tung cánh bay cao
Cánh bằng bạt gió vẫy chào Tự-Do.

                              Tháng 9 năm bính dần 1986
                                 Trại giam kế tỉnh Hà Bắc

Chú thích:
(1)-“Tù nhà nước đỡ khổ hơn,
Ở tù cha mẹ tủi hờn héo hon.
Lấy ý trong lời dạy của Đức PHẬT:
“ Ở tù trong ngục của nhà nước còn có kỳ mãn hạn. ở tù trong nhà ngục của người thế gian thì không có kỳ mãn hạn”

(2)- “Ghét ghen tranh chấp với con,
Sợ người kính trọng con còn hơn cha!”
Là nhắc lại lời thân phụ của Bần Tăng thường nói với các đệ tử của Bần Tăng, rằng: “ đừng gọi nó là “Thầy”… gọi nó là “Anh” thôi!”
(3)- “Cháu con buồn khổ lánh xa,
Của tiền giàu có chắc là sướng đâu?
Có tiền hưu quạnh tẻ sầu,
Không bằng đạm bạc thanh cao quây quần.”
Là lấy ý trong câu ca dao:
              Thà ăn bắp họp đông vui,
            Còn hơn giàu có mồ côi một mình
(4)- “Hỡi ôi, Cổ-Pháp cố hương!
Nhớ thương đành vậy, tha phương định rồi!”
Làng Đình bảng ngày nay, xưa có tên Cổ Pháp



V-Muốn qua biển khổ gắng TU






Sự đời nhắc đến mà đau,
Hỡi người quen rót chén sầu đó chăng ?(1)
Ham đi giải phóng miền Nam,
Bị điều nghi vấn bắt làm khổ sai.
Lâm đồng 8 tháng lần hai,
Gửi hình… gọi điện… bắt ai phải tù!(2)
Bức về quê được hai thu
Nhờ ơn cha mẹ lại tù lần ba!
Hai năm giam lỏng tại nhà,
Mẹ cha dò xét coi là kẻ gian.
Quyết lòng đi báo công an,
Tượng kinh thu hết, phá tan bàn thờ,
Hai năm giữ chặt giấy tờ,
Cản ngăn cấm đoán tự do còn gì!
Đồ dung sách vở đông y,
Thuốc thang lấy hết còn gì nữa đâu!
Dao ai cắt ruột mà đau?
Muối ai xát dạ mà rầu tái tê?
Sướng vui ai chẳng muốn về,
Khổ đau đành phải lìa quê vậy mà?
Những mong nồng thắm thiết tha,
Ai ngờ oan trái xót xa nỗi niềm.
Tưởng gần cha mẹ ấm êm,
Ngờ đâu lại thấy càng them khổ buồn.
Mắt khô mà lệ lòng tuôn,
Mẹ cha khắc nghiệt quá hơn người ngoài.
Khinh người giữ giới, trì trai,
Chê người khổ hạnh hôm mai tu hành,
Thế gian trọng lợi ham danh,
Đường TU quí báu thong manh thấy gì?
Ép đường thế tục thê nhi,
Không theo đổ tội lỗi bề hiếu trung?
Vô duyên nên chẳng tương phùng,(3)
Một câu nói đã ra lòng trái ngang(4)
Vì đâu oan trái phũ phàng,
Ba mươi tám tuổi tù giam ba lần.
Trải ba mươi tám mùa xuân,
Chưa từng an hưởng một phần thảnh thơi.
Đắng cay chua chat ngậm ngùi,
Phong ba bão táp dập vùi cánh hoa.
Phải chăng giống tích chúa Ba,
Gian nan như ĐỨC PHẬT BÀ chùa Hương?
Phong trần dãi nắng dầm sương,
Bần Tăng khổ hạnh Y-Phương giúp đời.
                             *
                        *           *
Đời là biển khổ mà thôi,
Cánh bèo gió dập nổi trôi mỏi mòn.
Xưa vua còn bỏ lầu son,
Nâu sòng khổ hạnh lên non TU HÀNH.
Hỡi người nặng lợi ham danh,
Hoàng lương tỉnh mộng TU HÀNH mau đi !
Trọng đường nhân đức TỪ BI,
Mộng danh lợi mãi sướng gì nữa đâu ?
                             *
                         *         *
Môn TU TINH-ĐỘ nhiệm màu,
Chuyên câu niệm PHẬT làm cầu bước sang.
Ngát hương trời cảnh Liên Bang,
TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC muôn ngàn sướng vui,
Ta mau kẻo muộn mất rồi,
Lên thuyền Bát Nhã ai ơi cùng về !

                              Tháng 9 năm bính dần 1986
                                 Trại giam kế tỉnh Hà Bắc
Chú thích:
(1)- « Sự đời nhắc đến mà đau,
Hỡi người quen rót chén sầu đó chăng ? »
Là lấy ý trong câu :
« Những chén sầu ai rót đầy vơi,
Tôi nốc cạn chén này chén khác. »
( Trích trong bài « Tâm sự một chặng đường » - 1973)
(2)- « Lâm đồng 8 tháng lần hai,
Gửi hình… gọi điện… bắt ai phải tù! »  
Tháng chạp năm 1983 khi kẻ Bần Tăng này đến trình giấy ở Mặt trận tổ quốc tỉnh Lâm Đồng thì bị đưa qua bên công an với lý do :
« Theo ý kiến của công an tỉnh Lâm Đồng rằng : có ý kiến của cong an Hà Bắc vào nên chúng tôi phải đưa ông qua bên công an tỉnh »
Sau này mỗi khi làm việc với công an của trại giam cứu Đà lạt, kẻ bần tăng này đều đặt câu hỏi và đề nghị rằng ; « Tôi phạm tội gì ? tôi vi phạm  điều khoản nào của luật pháp nhà nước. Nếu tôi vi phạm pháp luật cứ đưa ra trước công chúng xét xử công minh chính trực»
Công an trại trả lời :
“ Ông không vi phạm tội gì! Đây là ý kiến gia đình đã gửi hình và điện báo công an Hà Bắc, nhờ công an Lâm Đồng giữ Ông lại, trả Ông về quê để gia đình và địa phương quản lý Ông!”
Rồi công an của trại đưa ra tấm ảnh một quân nhân có đội mũ lưỡi trai hỏi:   - Đây có phải là ảnh của Ông khi ở Quân đội Không?
          - Phải
(3)- Câu thơ :« Vô duyên nên chẳng tương phùng, » Là lấy trong ý câu thơ cổ :
« Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diên bất tương phùng »
(4)- câu thơ :  « Một câu nói đã ra lòng trái ngang  » Là lấy trong ý câu thơ cổ :            
«  Tửu phùng tri-kỷ thiên bôi thiểu,
    Ngôn bất đồng tâm bán cú đa ? »
« Uống rượi với người tri kỷ ngàn chén còn thấy ít
Nói với người không cùng tâm ý nửa câu đã thấy nhiều »