Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2011

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Thiền Tâm (1924 - 1992)và ĐÔI ĐIỀU TÂM NGUYỆN của SA MÔN TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI THÍCH QUẢNG ĐỊNH


Ưu Bà Di Bảo Đăng
Hòa thượng Thích Thiền Tâm sinh năm 1924. Tại làng Bình Xuân, quận Hoà Đồng, Gò Công, xuất gia từ năm 13 tuổi.
Năm 1964 Hoà thượng là Viện Trưởng Sáng Lập Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm. Hoà Thượng Thích Thanh Từ, vị Thiền sư nổi danh tại Việt Nam hiện nay, và Hòa thượng Thích Bửu Huệ, lúc đó là hai vị phụ tá của Hoà thượng Thiền Tâm.
Trong khi điều hành Phật học Viện Huệ Nghiêm, Hoà thượng Thiền Tâm còn giảng dạy Phật pháp tại Phân Khoa Phật học Viện Đại học Vạn Hạnh, làm Giáo thọ tại các Ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm, phiên dịch và trước tác nhiều Kinh sách giá trị, hiện vẫn đồng được dùng cho việc tu học.
Năm 1964-1965, hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách "Phật Học Tinh Yếu", gồm 3 cuốn, dài trên 1200 trang.
Năm 1965-1966, Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển Niệm Phật Thập Yếu" gồm 10 chương, dài gần 400 trang (kể luôn các phần bổ túc sau này, trên 50 trang (1979-1980). Năm 1966-1967, Ngài hoàn tất hai quyển Kinh sách:
Duy Thức Học Cương Yếu, gần 300 trang. Sách giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong Bộ Môn Duy Thức Học.
Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh, còn gọi là "Thiên Thủ Thiên Nhãn,Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh" trên 150 trang.
Đây là quyển Kinh Mật Tông, giảng dạy và xiển dương về oai lực của chú Đại Bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.
Năm 1974, Hoà thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc.
Năm 1992, nhằm này 14 tháng 12 dương lịch. Hoà thượng viên tịch, thọ 68 tuổi. Ba ngày sau trong lễ khai mộ của Ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước Tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên Ni Sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video.
Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức - Đà Lạt). Dân số nơi đây vào năm 1968 chỉ có chừng 50 nóc nhà, mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (người Việt), số còn lại là người Thượng (dân tộc thiểu số). Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt - Sài Gòn (tức là quốc lộ số 20), còn nhà sàn của người Thượng thì nằm sâu trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3,4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh, còn gọi là sông Đa Nhim, vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt, có đập thủy điện cao thế Đa Nhim. Chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây của ấp, qua hướng Nam, Đông Nam của vùng Đại Ninh với một giòng nước ngọt êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng nầy, từ lâu trở nên vô cùng phong phú.
…"Hương Quang tịnh Thất" là nơi của cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người Kinh khác trong thôn, mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng, cho nên muốn vào đến chỗ trú xứ của Ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa, mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.
Vùng Phú An này (vào thời gian 1968, đặc biệt là chỗ của cố Hòa thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít người lai vãng và có lẽ, cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
Theo lời Ngài kể lại thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, Ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v... Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào Thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu thì Ngài cũng có ý sơ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng. Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao. Rồi Ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép "từ bi quán" đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa. Con rắn "đánh đu mình qua bên nầy, bên kia phạm vào mắt, vào cổ lạnh ngắt, mà Ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong Thất xong rồi, mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ). Vừa bước chân xuống "đơn" (tức là cái đi văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) thì Ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm. Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bấp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường! Ngài nghĩ: Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá. Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị Ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y từ từ cất đầu lên. nhìn Ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại. Lúc đó Ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng: Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho Thầy còn niệm Phật nữa. Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
Thêm một lần khác, đêm đó Ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước một chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, Ngài biết, chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được, trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi - sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn Ngài, Ngài nhìn nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, Ngài vừa niệm Phật vừa hỏi, có phải đạo hữu vào đây để nghe Kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho Thầy biết đi. Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố Hòa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình. Cũng như các lần trước, Ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi, và y ta nhìn Ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các "người bạn dài thòn", thấy dễ sợ này thì Ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy, nên Ngài mới làm pháp "Du già thí thực", hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng: (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe). Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe Kinh chú và niệm Phật. v.v... để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong Thất của Thầy nữa. Sau vài lần "truyền lịnh" như thế rồi thì từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa.
Nơi miền rừng núi cao nguyên này thường thì có rất nhiều gò mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính chỗ Thất mà Ngài đang ở (Phương Liên Thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu. Như vừa lược qua căn Tịnh Thất của Ngài ở, Thất được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa thượng ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa thượng đã vô tình "sống chung hòa bình" với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến Ngài là vì cứ mỗi tối, khi Ngài niệm Phật trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng Kinh v. v... thì các "y ta" nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi an bình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. Đây là lý do vì sao mà khi Ngài mới dọn về - như đã có lược qua trong phần trước - là ở dưới chân giường, cầu thang, bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà Ngài không hiểu vì sao nó lại vào Thất được, trong khi Ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi. Nhờ tu theo bằng cách "dựa hơi" Hòa thượng "các ông dài" này dần dần trở nên linh thông biến hóa được. Do vì thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các "Y ta" kính lễ cố Hòa thượng như bậc cha, Thầy, còn các "Y ta" thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử. Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa - chẳng những nó không làm cho Ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho "Sư Phụ" nữa. Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa thượng đã tự thân kể lại cho Ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đại Đức Thích Hải Quang nghe: Có lần, cố Hòa thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau Thất (Phương Liên) của Ngài, lúc Ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì Ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài quay đầu ngó lại, thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng. Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho Ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu rồi mới định thần được. Xong rồi, Ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng: Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi, Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó Ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối. Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết, nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết. Khuya lại, sau thời khoá trì niệm (gần 4 giờ sáng) Ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao mấy người Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa Thất của cố Hòa thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v... Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy bên ngoài, trước Thất của Ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như cò vảy, đang chắp tay cúi đầu chào Ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Phải hai vị đến xin việc làm hôn? Hai người ấy đáp: Mô Phật, kính bạch Hòa thượng không. Uả, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy? Người đàn ông đáp: Bạch Hòa thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho Ngài giật mình. Xin Hòa thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối. Cố Hòa thượng lấy làm kỳ, nên Ngài mới hỏi: Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu? Người đàn bà đáp: Kính bạch Hòa thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của Ngài lúc Ngài làm vườn đó. Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đã có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng, theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu?) Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi? Người đàn bà đáp: Kính bạch bạch Hòa thượng cháu được 95 tuổi. Cố Hòa thượng của chúng ta giật mình, sửng sốt hỏi tiếp: Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi? Người đàn ông đáp: Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760. Đến đây thì Hòa thượng đã biết rõ họ là ai rồi, nên Ngài mới hỏi tiếp: Hai vị ở đâu tới đây? Người đàn ông thưa: Bạch Hòa thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người... Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng đập mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu khoảng một ngàn người... thì làm thinh luôn. Cố Hòa thượng gật đầu nói: Thôi hai vị yên lòng về đi không sao đâu. Nghe Ngài bảo nbư vậy thì hai vợ chồng người này đồng chấp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau Thất của Ngài. Hòa thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì Ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy). Do đó nên Ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn Chúa (chúa động). Hang ổ chánh của bọn chúng nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là Huỳnh Xà Động" (động rắn vàng). Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe Kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niêm Phật như vậy...
Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa thượng còn nhập Thất ở Bến Tre. Ngài có quen với một vị tu sĩ tên là "ông Sư Mỏ Cày". Sở dĩ, gọi là ông Sư Mỏ Cày vì vị này tuy có hình tượng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên, luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông Sư này ở tu tên Mỏ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông Sư này rất kính quý cố Hòa thượng qua phong cách và đạo hạnh của Ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Hòa thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho Sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà Sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa thượng. Lúc Ngài về Sài gòn và làm Đốc giáo ở Phật học Viện Huệ Nghiêm rồi thì Sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau. Sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa thượng, và rồi Sư qua đời vào mấy năm sau. Lần đầu tiên Sư lên thăm cố Hòa thượng vào năm 1970, lúc đó thì Ngài không còn ở Hương Quang Thất nữa, mà đã dời về Thất mới là Phương Liên tịnh xá rồi) và được Hòa thượng cho phép ở lại Thất của Ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo mật tông từ nơi cố Hòa thượng). Qua đêm đầu tiên, sáng lại, Sư có thưa với cố Hòa thượng rằng Thất của Ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn "Kim Xà" rất lớn và xin Hòa thượng hãy cẩn thận, vì đây là các loại rắn thần, con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết. Cố Hòa thượng gật đầu, nói với Sư là Ngài đã biết việc đó từ lâu rồi và cũng có kể lại cho Sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà. Qua ngày kế đó, Sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi thăm "xà động" này, khi thức dậy Sư có thưa cùng Ngài như sau: Nguyên từ mặt đất của nền Thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đó có khoảng 200 "ông dài" đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa. Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi. Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền Thất của cố Hòa thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm đều nghe Ngài niệm Phật trì chú và tu theo, cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa thượng làm Thầy để nương theo tu tập.
(Trích sách Vô Nhất Đại Sư - Hoà Thượng Thích Thiền Tâm)
Kim Xà Thánh Giả
(HT Thích Thiền Tâm sống giữa loài rắn) 











Phật lịch 2544-2000





ĐÔI ĐIỀU TÂM NGUYỆN


Tôi là TU-SĨ PHẬT-GIÁO SA-MÔN TỲ-KHEO BỒ-TÁT GIỚI
THÍCH QUẢNG ĐỊNH. (Thế danh: Nguyễn Thế Định)
Ngày tháng năm sinh: 02-04-1949
Sinh quán: Thôn Thọ-Môn, Xã Đình Bảng
                   Huyện Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh.
Trú quán: Thôn 3, xã Liên đầm,
                   Huyện Di linh, tỉnh Lâm Đồng.



ĐÌNH LÀNG ĐÌNH BẢNG


          Xuất thân trong một gia đình cách mạng cha tiền bối cách mạng và hai người anh là Đảng viên Đàng cộng sản Việt Nam. Anh trai thứ hai là bộ đội pháo binh hy sinh tại Quảng Bình.


CỔNG VÀO ĐỀN THỜ LÝ BẤT ĐẾ TẠI ĐÌNH BẢNG
Đầu xuân Mâu thân(năm 1968) khi nghe LỆNH TỔNG-ĐỘNG-VIÊN của HỒ-CHỦ-TỊCH, cả nước với khí thế sục sôi lên đường đánh giặc giải phóng Miền Nam.
Tôi đã 3 lần trích máu viết đơn tình nguyện xin nhập ngũ.Mặc dù lúc đó đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự còn bị thiếu thước tấc, thiếu cân lạng ( chiều cao chỉ được 1m53 cân được 42kg).
Sau 10 năm tham gia quân đội, đầu xuân 1978 được giải quyết ra quân. Khi về quê tôi đã trình báo các giấy tờ với tỉnh đội Hà Bắc và đã có đăng ký hộ khẩu tại địa phương nhà.
Trong thời gian chiến đáu ở chiến trường B­2 và K tôi bị trúng một viên đạn vào đầu phía bên phải làm chấn thương sọ não và bị sức ép bom B52 ba lần làm sức khỏe bị hao tổn rất nhiều…
Tôi đã được chữa trị nhiều ở các bệnh viện lớn và các đơn vị an dưỡng của quân đội trong thời gian dài mà bệnh trạng cũng không tiêu giảm vẫn bị đau nhức toàn than và nhức đầu… tức ngực, khó thở…
1- Tôi tự nghĩ: “ chẳng ai hiểu mình bằng mình, chẳng ai thương mình bằng mình! giờ đây chỉ có đi học thuốc để tự cứu chữa cho mình mà thôi”!
          “ Đời ta ai hiểu bằng ta,
             Thân minh ai lại xót xa hơn mình !? »
          Tôi đem việc này ra bàn với người bạn thân là Bùi Quang Đức cùng đơn vị, ra quân trước tôi đã lập gia đình tại xã Phước-Thái huện Long Thành Tỉnh Đồng Nai.
          Bùi Quang Đức rất mừng, đưa tôi tới giới thiệu với Thượng Tọa Thích-Tâm-Hòa trụ trì chùa Pháp Vân, thuộc xã Phước Thái, xin Thượng Tọa châm cứu chữa bệnh cho tôi. Sau mỗi lần được châm cứu chữa trị, các chứng đau nhức toàn thân, nhức đầu tức ngực, khó thở giảm nhẹ nhiều. Tôi nhận thấy khoa châm cứu rất hay : Việc chữa bệnh kết quả nhanh chóng, lại đỡ tốn tiền bạc. Tôi xin học châm cứu với Thượng Tọa Thích-Tâm-Hòa gần một năm với các khoa : châm cứu , điểm huyệt, khí công, Bầu-Giác, cạo gió, chích, lễ…

2- Muốn cho việc chữa bệnh được đảm bảo chắc chắn và nhanh chóng cần phải kết hợp nhiều môn của khoa Đông y. Tôi lại tới học với Đại lão Hòa Thượng Danh y Thích Thượng Trí Hạ Hưng. Trụ Trì Tổ Đình Linh Sơn Phước-Lâm-Tự Núi Điện Bàn Thị Xã Tây Ninh. Tôi được cấp giấy đông y sỹ với các môn kết hợp : Chẩn mạch, Thuốc bắc, Thuốc Nam châm cứu.

3- Sau đó tôi lại được giới thiệu về làm Nghiên cứu Sinh theo chưng trình Đại học của Viện Y DƯỢC HỌC DÂN TỘC Thành Phố Hồ Chí Minh tại 273 đường Nam Kỳ khởi nghĩa Quận 3 Thành Phố Hồ Chí Minh.

4- Trong thời gian cư trú ở chùa Ấn Quang đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh, tôi xin học lớp PHẬT HỌC co bản tại chùa Giác Ngộ đường Nguyễn Chí Thanh, Quận 10 vừa là nghiên cứu sinh của Viện Đại Học Đông Y Thành Phố Hồ Chí Minh.

5- Tôi tìm tới dược sư Tịnh Xá số 157/4 đường 3/2 Quận 3 Thành Phố Hồ Chí Minh xin theo học và trực tiếp thực hành với Đại Danh Y Châm-Cứu-Sư THượng Tọa Thích Tâm Ấn ( đã từng theo học khoa châm cứu với các danh sư Nhật Bản trong 3 năm 1951-1958) môn TÝNGỌ LƯU CHÚ là tuyệt đỉnh của khoa châm cứu. Chẩn mạch để biết bệnh trạng ngũ tạng lục phủ, biết đúng ngày giờ đó chỉ cần châm cứu một huyệt chính trong các huyệt ngũ hành là có thể làm cho tình trạng sức khỏe người bệnh được phục hồi nhanh chóng.

6- Tôi lại tới xin học với CHÂM CỨU SƯ KHƯƠNG DUY ĐẠM, ở gần cầu Rnol, đường Hậu Giang Quận 6 Thành Phố Hồ Chí Minh về môn LINH QUI-BÁT-PHÁP ( tám phương pháp chữa bệnh đặc biệt linh nghiệm của khoa châm cứu )

7- Tiếp đó tôi lại tìm tới xin theo học với CHÂM-CỨU-SƯ THƯỢNG-TRÚC, kết hợp các môn : chẩn mạch, thuốc bắc, thuốc nam, châm cứu , điểm huyệt, Bầu-Giác, cạo gió, chích, lễ…
Là tác giả của những bộ sách nổi tiếng :
          1-CHÂM CỨU TOÀN KHOA
          2- CHÂM CỨU HỌC THỰC HÀNH
          3- Y-ÁN CHÂM CỨU THỰC-NGHIỆM
          4- CẨM NANG CHÂM CỨU
          5- TRẬT ĐẢ CỐT KHOA

8- Sau này tôi lại có nhân duyên tìm về chùa Long Thạnh tại thị trấn thủ thừa, tỉnh Long An theo học kết hợp các môn Đông Y và Tây Y với Bác sĩ Đông Y Danh Sư Thích Trí Thành, để làm cơ sở kiến thức nghiên cứu tinh thông những bộ sách quí của bậc danh y :
« TUỆ TĨNH TOÀN THƯ », SƯ TUỆ TĨNH
TỰ ĐỘ, ĐỘ THA…THẬT CÔNG TRÌNH
ĐỌC HẢI THƯỢNG Y TÔN TÂM LĨNH
« DƯỢC TÍNH CHỈ NAM » NGUYỄN VĂN MINH

THƯỢNG TỌA TÂM ẤN « CHÂM CỨU HỌC »
« CHÂM TÊ » BÁC SỸ NGUYỄN TÀI THU
« CẨM NANG CHÂM CỨU » DANH THƯỢNG TRÚC
GẮNG HỌC SIÊNG HÀNH CHẲNG CHỊU NGU !

« ĐỖ TẤT LỢI » hàng Giáo Sư Tiến Sĩ
« Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Ai vận dụng nhiều diệu phương huyền bí,
Hiểu rành thông lý thuyết giỏi tay làm ?

Ai khinh ta dốt ?
                                                    Chê sao được !
Quí « công ba lượng của ba đồng »
TÀU chuộng HOA ĐÀ mê BIỂN THƯỚC
Ta ơn TUỆ TĨNH trọng LÃN ÔNG »
                                    *
                               *          *
Xuất gia :









1-Từ cuối năm 1970, tôi phát tâm TU-HÀNH, xin thọ pháp xuất gia và học Y-Phương minh, đồng thời xin thọ trì pháp môn TỊNH ĐỘ với ĐẠI –LÃO HÒA-THƯỢNG Danh Sư THÍCH THƯỢNG TRÍ HẠ HƯNG, Ngài TRỤ TRÌ LINH-SƠN PHƯỚC-LÂM-TỰ TỔ ĐÌNH NÚI ĐIỆN-BÀ Thị xã TÂY NINH.
2- Sau đó tôi xin về Ấn Quang Tự đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh cầu xin HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG TRÍ HẠ QUANG đỡ đầu nương theo tu học, được Hòa Thượng gửi qua THƯỢNG TỌA THÍCH THƯỢNG MINH HẠ PHÁT cầu Y-CHỈ-SƯ, xin thọ trì pháp môn TỊNH-ĐỘ đồng thời học lớp PHẬT HỌC CƠ BẢN tại chùa GIÁC NGỘ đường Nguyễn Chí Thanh, Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh
3- Tôi được dự kỳ thi thọ Sa-Di Thập giới năm 1979 tại GIỚI ĐÀN ẤN QUANG TỰ.
4-Tháng 4/1980 tôi được dự kỳ thi 3 môn KINH-LUẬT-LUẬN, thọ 250 GIỚI TỲ KHEO đồng thời xin thọ 58 GIỚI BỒ TÁT tại GIỚI ĐÀN LONG-HOA-TỰ ( xã Long Điền,huyện Đất đỏ, tỉnh Bà Rịa) của hội đồng giám khảo ; gồm Tam Sư Thất Chứng do ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG
Danh tăng THÍCH THƯỢNG NHƯ HẠ MẬU làm HÒA THƯỢNG ĐÀN ĐẦU truyền giới.

5- Tiếp liền đó trong năm 1980 tôi tìm về CHÂN ĐỨC THIỀN VIỆN ở Gia Định đô thành Sài Gòn, xin thọ trì THIỀN PHÁP với ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ THÍCH THƯỢNG TỪ HẠ QUANG (thọ 108 tuổi)
Sau này hành trì kết hợp với môn THIỀN VĂN-TỰ-DỤNG TAM-MA- ĐỊA của ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT để quán xét, được khai minh phát trí thấy ra được nhiều điều thậm thâm vi diệu.

6- Vào cuối năm 1980 tôi được Thượng Tọa Thích Phước Huệ trụ trì chùa Viên Thông đường Hoàng Đạo nối dài quận 3 thành phố Hồ Chí Minh truyền trao cho một số pháp chú MẬT TÔNG bằng PHẠN ÂM tại chùa Viên Thông.

7- Tiếp liền theo đó ( cuối năm 1980) tôi có duyên được về HƯƠNG NGHIỆM TỊNH VIỆN tại thôn Phú An xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng, xin lĩnh thọ kết hợp các môn :
THIỀN-TÔNG, LUẬT TÔNG,MẬT TÔNG, TINH ĐỘ TÔNG với VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THƯỢNG THIỀN HẠ TÂM.  Hòa thượng Thiền Tâm nguyên trước đây là GIÁO SƯ PHẬT HỌC VIỆN DƯỢC SƯ, Giáo sư trường cao đẳng PHẬT HỌC HUỆ NGHIÊM, Giaos Sư Trường Đại Học PHẬT GIÁO VẠN HẠNH Thành Phố Hồ Chí Minh ( về khai sơn lập địa và ẩn tu tại HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN,  khu Đại Ninh, thuộc thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng). Ngài là dịch giả của những bộ kinh pháp MẬT TÔNG.
1-    KINH ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI
2-    KINH PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
 Ngài là dịch giả của những bộ kinh pháp :
1-    KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT.
2-    MẤY ĐIỆU SEN THANH
3-    HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
4-    KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI
5-    TỊNH ĐỘ THẬP NGHỊ LUẬN
Soạn thuật đúc kết Tam Tạng kinh điển trong bộ sách :
-         PHẬT HỌC TINH YẾU (gồm 3 tập)
-         NIỆM PHẬT THẬP YẾU : là bộ sách tổng hợp hoằng truyền về pháp môn TINH ĐỘ, nhiều Phật tử TÍN ĐỒ TỊNH ĐỘ TÔNG trên thế giới đang say sưa, ưa thích, hâm mộ… có nhiều người được vãng sanh về thế giới TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC của ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ nhờ nghiên cứu TU TẬP thực hành theo bộ kinh pháp :
                                       NIỆM PHẬT THẬP YẾU
Do VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THƯỢNG THIỀN HẠ TÂM trước tác.
Tôi được VÔ NHẤT ĐẠI SƯ truyền trao cho những ĐÀN PHÁP MẬT TÔNG TÂY TẠNG bằng PHẠN ÂM  của dòng KIM CƯƠNG MẬT THỪA :
-         TÂY-PHƯƠNG NHẬT-KHÓA
-         ĐẠI-BI TẤT-ĐỊA ĐÀN-PHÁP
-         CHUẨN-ĐỀ TẤT-ĐỊA ĐÀN-PHÁP
-         ĐẠI-BI CHUẨN-ĐỀ HỢP-THỨC ĐÀN-PHÁP
Những ĐÀN-PHÁP do VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THƯỢNG THIỀN HẠ TÂM truyền cho tôi- tương tự như những PHÁP của các THIỀN SƯ kiêm PHÁP SƯ MẬT TÔNG Triều Lý : Từ Đạo Hạnh và Khổng Minh Không, đã đi cầu PHÁP CHÚ ĐẠI BI bằng tiếng PHẠN với các A-XÀ-LÊ PHÁP SƯ MẬT TÔNG ẤN ĐỘ, từ thế kỷ 11.

8- Quốc Sư Vạn Hạnh Triều Lý là Bậc :
                             « Thượng thông thiên văn, hạ triệt địa lý »
Như lời vua Lý Nhân Tông đã từng tán thán :
                  « VẠN HẠNH dung tam tê
Chân phù cổ cấm ky(cơ)
Hương quan danh Cổ Pháp
                   Trụ tích chốn vương kỳ. »
Dịch :
                 « VẠN HẠNH thông ba cõi
Lời sư nghiệm sấm thi
                   Từ làng quê Cổ Pháp
                   Chống gậy chốn kinh kỳ.”
…Noi theo tấm gương của Quốc sư VẠN HẠNH muốn được tinh thông của KHOA HỌC HUYỀN BÍ, tôi đã tìm tới ĐẠI-TÚC-NHO SỬ-GIA HOC-GIẢ uyên bác ( người đã dạy cho cả ngàn học trò thành danh ) là DƯƠNG –TUYỀT DÃ-PHU PHAN-VỌNG-HÚC    ( tác giả bộ sử ký         «  DANH NHÂN MIỀN BẠCH ĐẰNG GIANG » ở tại khu Cống- xếp sau ga xe lửa Hòa Hưng, quận 3 Thành Phố Hồ Chí Minh ) để xin học về các khoa : thiên văn, địa lý, kinh dịch v.v.. của môn HUYỀN-CƠ-HỌC.

(9)- Tôi được biết THIỀN SƯ THÍCH NGUYÊN KHÁNH cư trú tại 43 phố Trần Nhật Duật, quận 2, Thành Phố Hồ Chí Minh, đã từng đi Ấn Độ thọ pháp với các LẠT MA TÂY TẠNG từ trước ngày giải phóng miền Nam (1975)… xin cầu học môn Dịch Cân Kinh của ĐẠT MA THIỀN SƯ cũng là tổ sư của môn phái võ công THIẾU LÂM TỰ danh tiếng. Đồng thời cũng xin học môn YOGA tối thượng ; tự chữa mọi bệnh tật, thân thể luôn luôn tráng kiện dẻo dai, gồm 10 thế kết hợp liên hoàn với nhau như bài thái cực quyền của ĐẠI VÕ SƯ TRƯƠNG TAM PHONG nổi tiếng Trung Hoa thời kỳ sau này.

10- Từ những năm 1980 tôi đã nghiên cứu môn dưỡng sinh GẠO LỨT MUỐI MÈ (cơm gạo xay không giã trắng với muối vừng) của Bác học THIỀN SƯ Oh-Sa-Wa ở Nhật Bản. Lấy việc ăn cơm gạo lứt muối mè làm căn bản, kết hợp việc dùng các thức ăn bằng thực vật (ăn thuần chay) được chế biến đúng luật âm dương : vừa là những linh dược chữa bệnh đạt kết quả tốt, vừa là những thực phẩm ngon lành. bổ dưỡng ăn điều chỉnh cân bằng âm dương trong cơ thể. Chữa trị nhiều căn bệnh hiểm nghèo…
          « Kỳ diệu thay cơm gạo lứt muối mè!
   Thơm, ngọt, béo, đậm đà, phương số 7
   Bao cố bệnh đều tiêu trừ hết thảy
   Nơi thân tâm an lạc thật khôn lường »
11 – Những năm 1984 – 1988 khi ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG PHÁP CHỦ THIỀN SƯ KIÊM LUẬT SƯ THÍCH THƯỢNG ĐỨC HẠ NHUẬN lưu trụ ở chùa Quảng Bá quận Tây Hồ Thành phố Hà Nội, tôi thường xuyên về dâng cúng các linh dược lên HÒA THƯỢNG PHÁP CHỦ đồng thời xin HÒA THƯỢNG giảng giải thêm cho những phần cần thiết trong bộ LUẬT PHẠM-VÕNG BỒ-TÁT-GIỚI được thông suốt làm cho việc VẬN DỤNG các pháp của người XUẤT GIA TU HÀNH ĐẠI-THỪA BỒ-TÁT-HẠNH cứu khổ ban vui cho chúng sinh không bị chướng ngại, thường được thành tựu viên mãn.


Thành tựu:












12 – Ngày 19 tháng 2 năm Bính dần (1986) là ngày lễ vía ĐỨC ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT,  HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG THANH HẠ VĨNH là Trưởng Ban Đại diện Phật Giáo Tỉnh Quảng Nính, kiêm trụ trì khu danh lam cổ tự núi Yên Tử ; được Hộ Pháp báo cho biết trước 3 ngày đã về chùa Hoa Yên ở lưng chừng núi Yên Tử, chờ tôi lại đó để thỉnh tôi trừ dẹp AN-KỲ-SINH (là quan Đại Thần triều đình nhà Đường bên Tàu giỏi về thiên văn địa lý, chuyên tu 12 năm rưỡi tại đây đắc Địa Tiên) đã trấn yểm khu LINH ĐỊA AN TỬ SƠN này.
          «  Triệt Địa-Linh để chẳng sinh Nhân-Kiệt,
              Chiếm Địa-Linh mong thắng trận Tâm-Linh. »
Vùng núi Yên Tử LINH-ĐỊA này là mạnh đất lớn nhất trên đất Việt có đủ Bách-Long cho nên AN KỲ SINH muốn trấn yểm phá hư mạch đất này, với thâm ý; muốn cho xứ sở Nam Việt muôn đời mãi mãi mai sau không có thể sản sinh ra các bậc thánh nhân cứu độ nhân thế.
HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG THANH HẠ VĨNH rất ân cần tha thiết nói lời thỉnh mời:
“Từ nhiều năm trước đây, tôi đã làm bản phúc trình lên Quốc hội xin cung thỉnh các bậc cao tăng trong cả nước tập trung về để giải quyết công việc này, đây là một việc lo lớn của tôi… chưa đủ cơ duyên thực hiện được…
          Nay HỘ PHÁP báo cho tôi biết trước 3 ngày về đây chờ thỉnh THƯỢNG TỌA hoan hỷ tận tâm tận lực dùng mọi phương tiện thiện xảo trừ dẹp AN-KỲ-SINH và chỉnh sửa khu ĐỊA-LINH này được phục hồi trở lại, cho xứ sở này được hưởng trọn niềm ân đức của TAM BẢO…công đức của THƯỢNG TỌA thật là vô lượng!...”
- “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! KẺ BẦN TĂNG này xin cố gắng hết khả năng mình…”
Sự cụ Đàm Chính trụ trì chùa Khánh Vân Tự (chùa Tiêu) là Chánh đại diện Phật Giáo huyện Từ Sơn Bắc Ninh, có sư thầy Đàm Niệm là đệ tử tháp tùng cùng nhiều Phật tử hữu duyên xin đi theo trong kỳ lễ vía ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT lần đó đều liễu tri…
          Để thành tựu Phật sự này tôi phải HÀNH TRÌ VẬN DỤNG PHÁP TAM-MẬT TƯƠNG-ƯNG trong các ĐÀN PHÁP MẬT TÔNG của PHẬT GIÁO kết hợp một cách hài hòa với nhiều khoa môn HUYỀN CƠ HỌC…
Khi hóa giải xong công việc của khu ĐỊA LINH AN-TỬ-SƠN là mạch đất chính (bách long) HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG THANH HẠ VĨNH lại thỉnh tôi sửa tiếp mạch đất quan trọng thứ hai trên đất Việt đã bị người Tàu trấn yểm làm hư tổn nặng là khu danh lam CỔ TỰ CHÙA HƯƠNG TÍCH (có 98 thuận long với 1 nghịch tượng…. Được chuyển hóa thành khu linh địa CHÙA HƯƠNG TÍCH có đủ Bách Long)
Sau khi hai khu LINH-ĐIA chính được hóa giải và chỉnh sửa an ổn, các vấn đề tâm linh của xứ sở được cởi mở, phát khởi và chuyển biến nhiều điều tốt đẹp…
“Tả ao bảo ĐỊA-LINH SINH NHÂN-KIỆT
  Nơi âm dương sung mãn phát NHÂN TÀI
            TIÊN TÍCH ĐỨC, HẬU TẦM LONG… khéo biết,
  Trăm ngàn lần đều ứng nghiệm không sai”

Trên núi Cánh Diều cùng với khu Hàm Rồng ở Thanh Hóa và còn rải rác nhiều nơi khác bị người tàu yểm phá …chưa được hóa giải!...
- Năm 1990 tôi được HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG ĐỒNG HẠ-HUY là Chánh Đại diện Phật Giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, cùng THƯỢNG TỌA THÍCH MINH ĐẠT là trụ trì chùa ĐẠI TÙNG LÂM, mời tôi về chữa bệnh cho chư TĂNG NI khu ĐẠI TÙNG LÂM thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Sau khi hoàn thành trách nhiệm chữa bệnh cho chư TĂNG-NI và thành lập một TUỆ TĨNH đường để chăm sóc sức khỏe cho 700 chư TĂNG-NI cùng chư Phật tử ở đây, tôi lên núi Thị Vải lập TỊNH THẤT chuyên TU. Có một Đại đệ tử của PHÁP SƯ MẬT TÔNG THÍCH VIÊN ĐỨC, nguyên là cựu giáo sư Trường Đại học Văn khoa Đô thành Sài Gòn là ƯU BÀ TẮC BỒ TÁT GIỚI Dương Ngọc Tạo, Pháp danh Chúc Thành đã tìm về TỊNH THẤT LINH-PHONG-ĐỘNG trên núi THỊ VẢI trao lại cho tôi chiếc chày KIM CƯƠNG cùng những PHÁP BẢO MẬT TÔNG tối thượng tượng trưng cho sự quy hướng TỔNG TRÌ của SA MÔN THƯỢNG THỦ dòng ĐÔNG-MẬT VIỆT NAM là A-XÀ-LÊ PHÁP SƯ MẬT TÔNG HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG ĐỒNG HẠ-VIÊN hiệu VIÊN ĐỨC tự THÔNG-LỢI. Với bốn bộ kinh PHÁP MẬT TÔNG nổi tiếng:
I- HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU
II- KINH ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
III-KINH CHUẨN ĐỀ ĐÀ-RA-NI HỘI THÍCH
IV-KINH MẠT PHÁP NHẤT TỰ ĐÀ-RA-NI
- Năm 1995 các đệ tử vân tập về tịnh thất Non Thị Vải xin được trùng tu Tịnh Thất thành chùa Quảng Phương là ngôi chùa Mật Tông đầu tiên trên đất nước Việt Nam theo mô hình MẬT TÔNG TÂY TẠNG (phần tài vật chi phí chừng 1,5 tỷ đồng trong thời gian 18 tháng)
          Đầu năm 1997, muốn thực hiện lời di huấn của VÔ NHẤT ĐẠI SƯ dạy tôi trước đây
          “Miền đất cao nguyên, duyên hợp nhất,             
  Công phu thành tựu tại sơn lâm”
Tháng 7 năm 1997, tôi đem tất cả giấy tờ văn bản của chùa QUẢNG PHƯƠNG cùng khu đất 6 ha đã trồng cây gây rừng, giao cúng cho GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM, trực tiếp là bàn giao cho BAN TRỊ SỰ PHÂT GIÁO TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU, để về lại khu ĐẠI NINH, huyện ĐỨC TRỌNG, tỉnh LÂM ĐỒNG chuyên TU
          Tháng 9 năm 1997 Thượng Tọa Thích Pháp Chiếu biết tôi có tâm nguyện NHẬP THẤT CHUYÊN TU trên núi, nên đã giới thiệu tôi tới gặp
HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG TỪ HẠ HUỆ là trụ trì chùa TRÀ CANG ở trên núi Trà Bang thuộc thoonNho-Nam, Xã Phước Nam, huyện Ninh phước, tỉnh Ninh Thuận
          Thời gian TU HÀNH ở đây HÒA THƯỢNG Trụ trì chùa TRÀ CANG đã giao cho tôi khi một động đá để TỊNH TU ở lưng chừng núi, đồng thời cứu chữa cho hai căn bệnh hiểm nghèo từ đảo Phú Quí cách đất liền 65 hải lý thuộc tỉnh Bình Thuận… đưa về chùa xin cứu chữa.
          Trường hợp 1: Chú Ba Tấn (anh ruột của chú Nhật lập Tu ở chùa Trà Cang) bị bệnh tai biến mạch máu não bị cấm khẩu tê bại liệt toàn than…đã đi chữa trị ở bệnh viện Chợ Rẫy 18 ngày hết 6 triệu đồng mà bệnh không thuyên giảm… đưa về chùa xin cứu chữa. Sau một tháng người bệnh đã nói được, chống gậy đi lại được, tay cầm bát tự xúc cơm ăn được.
          Trường hợp 2: Chú Hai Phìn bị bệnh thần kinh, lại them phần âm tà ám nhập thường gào thét kêu to đập phá, phải dung dây xích khóa vào gốc cây… xin cứu chữa. Sauk hi chữa nửa tháng người bệnh đã được an định trở lại.
          - Đầu năm 1998 có mộ số TĂNG-NI ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định thỉnh tôi tới chữa bệnh tai biến mạnh máu não, bại liệt cấm khẩu…
Chi hội Chữ Thập Đỏ và Hội Y-Học Cổ -Truyền huyện Phù Cát , tỉnh Bình Đình đều mời tôi làm hội viên.
          - Năm 1999 tôi tới xin tạm trú trên núi Sẹc Lung thuộc thôn 7, xã Liên Đầm, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Đến thánh 7 năm 2000 tôi xin giao cúng khu đất 1 ha này cho tỉnh hội Phật giáo tỉnh Lâm Dồng, trực tiếp là bàn giao cho huyện hội Phật Giáo huyện Di Linh. Cũng như năm 1989 trước đây đã giao cúng cho GIÁO HỘI PHẬT GIÁO tỉnh LÂM ĐỒNG, trực tiếp bàn giao cho Thượng Tọa Thích Pháp Chiếu; là phó ban trị sự  Phật Giáo tỉnh một tịnh thất cùng khu đất 4000 m2 trồng cà phê có trái thu hoạch mấy mùa…bên bờ song Đại Ninh thuộc thôn Thiện Chí, xã Ninh Gia, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
          Tâm nguyện của người XUẤT GIA TU HÀNH ĐẠI-THỪA BỒ-TÁT-HẠNH không phải lo việc Giải Thoát cho riêng mình (Tự-Độ), mà việc chính yếu là phải dung vô lượng phương tiện để CỨU-KHỔ BAN- VUI cho chúng sinh ( Độ-Tha)  làm thế nào có thể giải quyết được khó khổ … nguy nan từ trước đến nay?
        “Chữa bệnh cứu người không đơn giản:
Trị phần than bệnh giảm tiêu nhanh
Ai mang bệnh nghiệp?
Ai đại hạn?
Phương chi cứu phạm luật ngũ hành?
“Trúng tuổi kim lâu” đâu dễ chữa?
“Phạm cung tuyệt mạng” sửa làm sao?
Cớ chi sinh nữ, không nam tử?
“Vô sinh” “Tuyệt tự” chữa thế nào?”
Làm bất cứ việc gì muốn đạt kết quả tốt cần phải có NIỀM TIN VỮNG CHẮC:
          “ Ai chữa bệnh cứu giải trừ tận gốc
   Không dở dang, dói gạt chữa cầu may?
   Ai bệnh khó đòi khỏi liền một chốc?
   Ai nghiệp sâu muốn tiêu gấp đôi ngày?
  
   Bệnh khó tin sâu còn cứu được
   Nghi ngờ bất tín thật vô phương!
   Dù rước HOA ĐÀ cầu BIỂN THƯỚC,
   HẢI-THƯỢNG TIÊN ÔNG cũng bí đường!”
Vận dụng Diệu Pháp gì để có thể đật được:
          “ Sao ngủ ít thức nhiều không nhọc trí?
   Sao đọc hoài, viêt mãi chẳng lao tâm?
   Ăn một bữa vẫn rèn như dũng sĩ,
   Búa tạ quai, khai động đá ầm ầm!”
Muốn cứu khổ ban vui cho chúng sinh cần phải làm thế nào giải quyết được nhiều việc:
          “ Giải nghiệp nặng phải LẬP ĐÀN SÁM HỐI,
             Siêng TU-TRÌ TRỪ-CÁI-CHỨNG CHÂN-NGÔN
             MÙA BÁO HIẾU VU LAN tiêu giải tội
             MỜI TỐ NHƯ cùng cúng thí cô hồn,

             Gieo trồng làm sao, sâu khỏi phá,
             Chuột bọ, thú rừng cũng tránh đi!
             Linh dược hoa thơm cây trĩu quả…
             KHÉO THỰC HÀNH PHÁP CHÚ-ĐẠI-BI!

             KHỔNG MINH đại thắng miền XÍCH BÍCH
             Bởi biết lập đàn rước gió Đông,
             Quốc thái, dân an, tan ôn dịch,
             KHÉO LẬP-ĐÀN HÀNH-PHÁP MẬT-TÔNG

             Cứu nghèo khó: DỤNG PHÁP CẦU TÀI BẢO,
             Trừ ngu si: trì TĂNG-TUỆ CHÂN-NGÔN
             Tiêu nghiệp chướng hóa giải bao khổ não,
             Ai khéo dung trong ngàn vạn pháp môn?

             AI KHÉO “DỤNG NHÂN NHƯ DỤNG MỘC”?
             AI BIẾT “DỤNG Y NHƯ DỤNG BINH”?
             Dứt trừ nghiệp sát, tham, ác độc
             Thế giới đẹp vui cảnh thái bình!”
Muốn thật sự làm cho đất nước hưng thịnh, xứ sở phồn vinh, nhân dân AN-LẠC cần phải vận dụng, thực hành cùng với nhiều phương tiện thiện xảo:
          “ PHẬT PHÁP, DƯỠNG SINH, Y … NHÂN ĐIỂN,
             HUYỀN-CƠ CHÂM-CỨU dược… hay thay!
             BẢY MŨI GIÁP CÔNG dàn trân tuyến,
             Bệnh ma tật quỉ cũng tan bay!”

          Đi ngược dòng lịch sử của dân tộc Việt Nam xét về vấn đề Tâm-Linh xưa TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ chúng ta được biết:
          “ LÝ TRIỀU ma quỉ thường quấy rối,
             Phù thủy ĐẠI-ĐIÊN biến hóa thông!
             Phạt TỐNG, bình CHIÊM, trừ ma nội,
             Ơn TỪ ĐẠO HẠNH, KHỔNG MINH KHÔNG!”

          Trên non song đát việt mến yêu này thời kỳ nào cũng có những người có tầm nhìn xa trông rộng với tâm hồn tư tưởng khoáng đạt, luôn sẵn sàng xả than vì đại nghĩa của dân tộc như:
        “Lý Quốc Sư, Hưng Đạo Vương thương đoái,
          Nhìn non song ĐẠI VIỆT được them gì?
          Ai ân trọng?
                                  Ai cầu, ai lưu lại?
          Ai bất cần ?
                                  Ai đánh đuổi ai đi ?”

                                      *
                                 *           *
Với TÂM-ĐỨC HẠNH-NGUYỆN của người XUẤT GIA TU HÀNH, tôi luôn tự xét phận mình tài hèn đức mọn, còn phải cố gắng CẦU TU HỌC nhiều hơn nữa để có thể VẬN DỤNG kết hợp được nhiều PHƯƠNG PHÁP LINH DIỆU, đóng góp phần công sức nhỏ bé, làm cho quê hương xứ sở của mình mãi mãi được thái bình thịnh vượng:
        “Người viễn xứ học điều hay về xứ
          Kẻ tha hương, đem việc tốt hồi hương.

          Nhớ làng xưa Cổ Pháp nay Đình Bảng,
          Đất ngàn năm văn vật Bát-Lý-Vương,
          PHẬT ĐẠO Tiên Đế Trọng ai hủy bang?
          Nên hợp muôn lòng, xây dựng quê hương!”

          Mong sao mọi người phát tâm hành thieenjlanhs ác đồng tâm hiệp lực làm cho non song đất nước này được thật sự  vui hưởng phước lành an lạc:
        “Vui quá quê mình mùa trẩy hội,
          Con hiếu nào không nhớ CỐ HƯƠNG?,
          Kẻ tha phương tìm về nguồn cội,
          Kíp đi nhanh thẳng hướng chung đường!”
Những sự việc suốt quá trình hơn hai chục năm trời khổ công CẦU HỌC TÌM TU THỰC HÀNH và VẬN DỤNG của một người XUẤT GIA TU HÀNH ĐẠI-THỪA BỒ-TÁT-HẠNH giờ đây tôi mới chỉ phương tiện xin tạm nói sơ lược, làm sao có thể trình bày cho tường tận được trên mấy trang giấy này.
                            
                                      Đình Bảng ngày 15 tháng 01 năm 2000
                                       Người viết ĐÔI ĐIỀU TÂM NGUYỆN
                                         Là SA-MÔN TỲ-KHEO BỒ-TÁT-GIỚI
                                                       THÍCH-QUẢNG-ĐỊNH




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét